10 sự kiện nổi bật nhất trên thế giới trong năm 2011
Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012
Thứ Hai, 9 tháng 1, 2012
Những động từ đi theo sau là gerund (V-ing) trong tiếng Anh
* ALLOW DOING SOMETHING: cho phép làm gì đó
- They don't allow taking photographs in this supermarket. (Họ không cho phép chụp ảnh trong siêu thị này).
* AVOID DOING SOMETHING: tránh né làm gì đó
- People should avoid eating after 8 p.m (Mọi người nên tránh ăn sau 8 giờ tối)
* BEAR DOING SOMETHING = STAND DOING SOMETHING: chịu đựng được khi làm gì đó
- I can't stand listening to their singing. (Tôi không thể chịu được khi phải nghe họ hát)
* CAN’T HELP DOING SOMETHING: không thể không làm gì đó, không thể nín nhịn làm gì đó (thường là không thể nhịn cười)
- I can't help laughing every time I watch Mr.Bean (Tôi không thể nhịn cười mỗi lần xem Mr Bean)
* CONSIDER DOING SOMETHING: xem xét, nghĩ đến khả năng sẽ làm gì đó
- He seriously considered resigning. (Ông ấy đã nghiêm túc nghĩ đến việc từ chức)
* DENY DOING SOMETHING: chốí đã làm gì đó
- The woman denied killing her husband (Người đàn bà đó đã chối tội giết chồng
* DISLIKE DOING SOMETHING: không thích làm gì đó
- I dislike being the center of attention (Tôi không thích làm trung tâm của sự chú ý)
* DREAD DOING SOMETHING: rất rất sợ phải làm gì đó
- After a long holiday, many people dread going back to work (Sau một kỳ nghỉ dài ngày, nhiều người rất sợ phảiđi làm trở lại)
* ENDURE DOING SOMETHING: chịu đựng phải làm điều gì đó
- He can't endure being alone in a foreign country (Anh ấy không chịu được cảnh cô độc một mình ở nước ngoài)
* ENJOY DOING SOMETHING: thích thú, có được niềm vui khi làm điều gì đó, thích làm gì đó như là một thú vui
- Young children enjoy helping around the house (Trẻ nhỏ thường thích giúp đỡ làm công việc trong nhà)
* FINISH DOING SOMETHING: hoàn tất làm điều gì đó, làm xong việc gì đó
- When I finish typing this lesson, I will reward myself with a coffee. (Khi tôi đánh máy xong bài học này, tôi sẽ tự thưởng cho mình một ly cà phê)
* GIVE UP DOING SOMETHING = QUIT DOING SOMETHING: từ bỏ làm gì đó
- I wonder when my father will stop/quit smoking (Tôi không biết khi nào ba tôi mới bỏ hút thuốc lá)
![]() |
Những động từ đi theo sau là gerund (V-ing) trong tiếng Anh |
* GO ON DOING SOMETHING: tiếp tục làm gì đó
- Please go on working! (Hãy tiếp tục làm việc!)
* HATE DOING SOMETHING: ghét làm gì đó
- Paul hates having his pictures taken (Paul ghét bị chụp ảnh)
* IMAGINE DOING SOMETHING: tượng tượng làm gì đó
- She can't imagine living with a husband 40 years older than she. (Cô ấy không thể tưởng tượng được việc sống chung với một ông chồng lớn hơn mình 40 tuổi)
* INVOLVE DOING SOMETHING: đòi hỏi phải làm gì đó,đồng nghĩa với việc phải làm gì đó
- Running your own business involves working long hours (Điều hành doanh nghiệp riêng của mình đồng nghĩa với việc bạn phải làm việc nhiều giờ liên tục)
* KEEP DOING SOMETHING: mãi làm điều gì đó, liên tục làm điều gì đó
- If you can keep studying English 2 hours a day for 2 years, you will certainly be very good at it (Nếu bạn có thể học tiếng Anh liên tục mỗi ngày 2 tiếng trong vòng 2 năm, chắc chắn bạn sẽ rất giỏi môn này)
* LIKE DOING SOMETHING: thích làm gì đó
- I like watching documentaries. (Tôi thích xem phim tài liệu)
* MIND DOING SOMETHING: phiền lòng khi làm gì đó (dùng trong phủ định hoặc nghi vấn xin phép, nhờ vả)
- Would you mind opening the window? (bạn có ngại mở cửa số giúp tôi không?)
- I don't mind lending him some money as long as he promises to pay me back (Tôi không ngại cho anh ấy mượn tiền miễn là anhấy hứa trả lại cho tôi)
* MISS DOING SOMETHING: suýt đã làm gì đó
- As he crossed the street, the bus just missed hitting him (Lúc anh ấy băng qua đường, xe buýt suýt chút nữa đã đâm vào anh ấy)
* POSTPONE DOING SOMETHING: trì hoãn làm gì đó
- They have decided to postpone having a child for a while (Họ đã quyết định trì hoãn việc có con thêm 1 thời gian nữa).
* PRACTISE DOING SOMETHING: thực tập, thực hành làm gì đó
- You must practise speaking English as much as possible to become more fluent (Bạn phải thực hành nói tiếng Anh càng nhiều càng tốt để trở nên lưu loát hơn)
* REMEMBER DOING SOMETHING: nhớ đã làm gì đó (khi nghĩ về quá khứ)
- Do you remember locking the door? (anh có nhớ là đã khóa cửa rồi hay chưa?)
* RESENT DOING SOMETHING: ghét làm gì đó
- He resented having to work such long hours (anh ấy ghét phải làm việc nhiều giờ liên tục như vậy).
* RISK DOING SOMETHING: có nguy cơ bị làm gì đó
- If you invest in the stock market now, you will risk losing your money (Nếu bạn đầu tư vào thị trường chứng khoán lúc này, bạn sẽ có nguy cơ mất tiền.
* START DOING SOMETHING = BEGIN DOING SOMETHING: bắt đầu làm gì đó
- After his business started bringing in profits, his health started going downhill. (Sau khi việc làm ăn của ông ta bắt đầu đem lại lợi nhuận thì sức khỏe ông ấy bắt đầu xuống dốc)
* SUGGEST DOING SOMETHING: đề nghị làm gì đó
* SUGGEST DOING SOMETHING: đề nghị làm gì đó
- For those who want to improve their spoken English without spending money, I suggest finding a job in the back-packers'area. (Đối với những người nào muốn cải thiện kỹ năng nói mà không cần phải tốn tiền, tôi đề nghị tìm việc làm ở khu Tây ba lô)
* TO BE USED TO DOING SOMETHING: quen với việc làm gì đó
- She is still not used to getting up early. (Cô ấy ẫn chưa quen với việc dậy sớm).
* TRY DOING SOMETHING: thử làm gì đó
- If you want to know how the poor feel, try living on one dollar a day. (nếu bạn muốn biết người nghèo cảm giác thế nào, thử sống bằng 1 đô mỗi ngày đi)
* SPEND TIME DOING SOMETHING: bỏ (thời gian) làm gì đó
- He spends 4 hours playing computer games every day. (Mỗi ngày, nó bỏ ra 4 tiếng đồng hồ để chơi game vi tính)
Theo TiengAnhOnline.com
Những động từ đi theo sau là gerund (V-ing) trong tiếng Anh
Cách chèn quảng cáo của Google Adsense vào blogspot như thế nào?
Có một số blogger đã đăng ký xong một số mạng quảng cáo như adnet.vn hay Adsense của Google, có code rồi, tuy nhiên không biết chèn thế nào vào blog. Thực ra nói tới việc chèn sẽ nảy sinh ra hàng loạt trường hợp là chèn ở đâu, chèn vào tất cả các bài khi user mở Label hay chỉ chèn vào một bài viết. Chèn quảng cáo có float (style động) hay không. Bài viết dưới đây trình bày tương đối đầy đủ các kiểu chèn Code nhưng chỉ cho dạng Item (một bài nào đó được mở), trường hợp các trang label không đề cập ở đây.
Cũng giống như các yếu tố khác của trang web của bạn như hình và ảnh, bạn có thể thay đổi vị trí của quảng cáo Google bằng cách sử dụng các thẻ HTML.
Ví dụ: nếu bạn đặt mã quảng cáo AdSense trong các thẻ <div align=”center”> and </div>, thì đơn vị quảng cáo sẽ được canh giữa trên trang web của bạn. Bạn cũng có thể đặt toàn bộ nội dung trang của bạn vào một bảng HTML và thay đổi vị trí của đơn vị quảng cáo bằng cách đặt nó trong một ô cụ thể của bảng đó.
Cũng giống như các yếu tố khác của trang web của bạn như hình và ảnh, bạn có thể thay đổi vị trí của quảng cáo Google bằng cách sử dụng các thẻ HTML.
Ví dụ: nếu bạn đặt mã quảng cáo AdSense trong các thẻ <div align=”center”> and </div>, thì đơn vị quảng cáo sẽ được canh giữa trên trang web của bạn. Bạn cũng có thể đặt toàn bộ nội dung trang của bạn vào một bảng HTML và thay đổi vị trí của đơn vị quảng cáo bằng cách đặt nó trong một ô cụ thể của bảng đó.

Trong bài viết này tôi xin chỉ dẫn cho các blogger cách thức chèn mà quảng cáo vào các vị trí trên web blog.
Thông thường mã quảng cáo có dạng như sau:
<script type="text/javascript"><!--
google_ad_client = "pub-xxx";
//468x60, created 1/4/08
google_ad_slot = "6307774390";
google_ad_width = 468;
google_ad_height = 60;
//--></script>
<script type="text/javascript"
src="http://pagead2.googlesyndication.com/pagead/show_ads.js">
</script>
Trước khi chèn bạn phải chuyển đổi mã bằng nhờ Ad-code-converter . Sau khi convert mã CODE bạn nhận được một đoạn code Adsense mới (gọi tắt là ABC chẳng hạn) không có các thẻ mở, đóng và ngoặc kép trong mã. Ta sử dụng mã mới này để chèn vào template. Xin nhắc trước một lần điều rất quan trọng là trước khi thao tác với templates, bạn phải sao lưu nó về máy đề phòng bất trắc.
Có 4 vị trí tối ưu khi chèn mã quảng cáo:
1. Các banner dài, 468×60, 236×60… chèn trên đầu bài (nhưng dưới tiêu đề):
Để chèn vào vị trí như trên, làm như sau: Tìm đến dòng
<div class=’post-header-line-1′/>
và chèn vào “ngay bên dưới” nó mã này:
<b:if cond='data:blog.pageType == "item"'>
<p class='ads'>
ABC
</p>
</b:if>
2. Các banner dài, chèn vào dưới cuối bài viết:

Để chèn vào vị trí như trên, làm như sau: Tìm đến đoạn mã dạng na ná như sau:
<div class=’post-body entry-content’>
<p><data:post.body/></p>
<div style=’clear: both;’/>
</div>
(tại sao lại na ná? Vì có thể bạn đã chèn các link read more nên code có thể không còn nguyên vẹn như trước nữa)
và chèn đoạn mã này vào ngay dưới thẻ đóng /DIV cuối:
<b:if cond='data:blog.pageType == "item"'>
<p class='ads'>
ABC
</p>
</b:if>
3.Float trái (dồn trái): quảng cáo hiện ngang với text nhưng dồn về bên trái.
Cách chèn này tiện lợi với các mẫu cỡ vuông hoặc không quá chênh lệch dài rộng.

Cách chèn: làm y chang bước 1, nhưng thêm code màu đỏ ( style=’float:left’ )vào như sau:
<b:if cond='data:blog.pageType == "item"'>
<p class='ads' style='float:left'>
ABC
</p>
</b:if>
4.Float phải:

Cách chèn: làm y chang bước 1, nhưng thêm code màu đỏ ( style=’float:right’ )vào như sau:
<b:if cond='data:blog.pageType == "item"'>
<p class='ads' style='float:right'>
ABC
</p>
</b:if>
Còn một số thủ thuật chèn quảng cáo có điều kiện như “không hiện quảng cáo ở trang chủ”, “đổi ngẫu nhiên giữa 2 quảng cáo”,… nhưng có lẽ phải trình bày ở 1 dịp khác. Chúc bạn chèn thành công quảng cáo vào blog của mình.
Cách chèn quảng cáo của Google Adsense vào blogspot như thế nào?
Nguồn: http://vinasupport.com
Những cách đơn giản tăng lượng truy cập nhanh chóng cho website blog của bạn

Bước 1 : hãy bỏ chút thời gian để nghiên cứu các chiến lược tối ưu hóa trang web cho các công cụ tìm kiếm. Để quảng cáo 1 trang web hiệu quả, trang web đó cần phải được thiết lập để nhận được lượng truy cập tối đa từ những công cụ quảng cảo đó. Một trong những điều cơ bản nhất chính là sử dụng những tags, từ khóa trong văn bản, thuyết minh cho bức ảnh hay chỉ đơn giản là tên của 1 bức ảnh đó. Nếu muốn công cụ tìm kiếm dễ dàng nhất, hãy sử dụng meta tags.
Bước 2 : Hãy đăng ký trang web lên các công cụ tìm kiếm. Đây là những nơi mà bạn có thể tìm kiếm được những lượng truy cập rất lớn và cũng có thể là từ việc đăng ký trả tiền quảng cáo cho các công cụ tìm kiếm bằng cách đưa link web site cho chúng. Những công cụ chỉ đơn giản là hỏi những câu hỏi về lĩnh vực trang web của bạn muốn hướng tới, những từ khóa muốn quảng cáo. Đếm số từ. Số lượng tìm kiếm của từ khóa cũng rất quan trọng.
Bước 3 : Đăng ký 1 tài khoản tại những trang chia sẻ thông tin trực tuyến (social bookmark) như Digg, Stumble Upon, Propeller, Technorati, Linkhay, Vietbookmark,…Và học cách đưa bài lên.
Bước 4 : Thiết kế những danh thiếp cho doanh nghiệp. Đây là cách rất tốt để quảng cáo cho trang web. Rất nhiều nơi cho người sử dụng đăng thông tin miễn phí cũng như những trang web yêu cầu trả phí để có thể đăng danh thiếp chi tiết hơn cũng như chất lượng ảnh cao hơn. Vista Print là 1 nguồn rất tuyệt.
Bước 5 : Hãy gửi những thông báo ra ngoài về sự ra mắt của trang Web. Có lẽ là nên đưa ra quảng cáo trên các báo điện tử nếu như nội dung của trang web là duy nhất. Khu vực dễ tìm thấy những trang web mới nhất chính là những vị trí quảng cáo.
Bước 6 : Có những chiếc áo phông, những miếng dán, hay những đồ vật khác để quảng bá tên tuổi trang web. Các quán café hay các điểm tập trung đông người là 1 vị trí lý tưởng cho công việc đó.
Bước 7 : Hãy tham gia vào những diễn đàn thảo luận sôi nổi về lĩnh vực trang web đang hoạt động. Viết bài thảo luận về trang web của bạn và mời mọi người tham gia vào đó khi thích hợp. Đừng bao giờ spam mặc dù nó mang lại rất nhiều cơ hội để người khác có thể tìm đến trang web. Bạn có thể đặt trang web dưới chữ ký của mình ở các tài khoản trong diễn đàn.
Bước 8 : Hãy tìm kiếm Backlink. Backlink là nơi mà bạn đặt những liên kết còn hoạt động dẫn mọi người đến trang web trực tiếp. Backlink là 1 trong những thứ rất quan trọng cho việc nâng lưu lượng người truy cập khi bạn đang tìm kiếm cách để quảng cáo.
Bước 9 : Hãy tìm kiếm những lợi ích từ những mạng xã hội như Yahoo, Cyvee,…Đó là những mạng lưới rất lớn để kết nối với những người có cùng đam mê về lĩnh vực mà trang web của bạn đang hướng tới và họ chính là những người đánh giá đúng giá trị trang web đó.
Bước 10 : Hãy viết nhiều bài hướng dẫn. Bạn có thể quảng cáo trang web bằng cách quảng cáo bản thân mình như 1 chuyên gia trong lĩnh vực đó. Một khi đã có những người đọc tin tưởng bạn thì họ sẽ muốn xem trang web của bạn như thế nào. Và với những bài viết hướng dẫn bạn có thể đưa lên rất nhiều nơi cũng như sẽ có rất nhiều người đóng góp bài viết cho trang web của bạn. Đây là 1 việc trên cả tuyệt vời.
Theo: MiaLui.com
Những cách đơn giản tăng lượng truy cập nhanh chóng cho website blog của bạn
Thứ Năm, 5 tháng 1, 2012
Cách dùng Depression cho 'Suy thoái'
Recession và Depression đều mang nghĩa "Suy thoái". Tất nhiên sẽ có khác đôi chút trong sử dụng. Trước hết, chúng ta nên biết về Depression để hiểu nhiều hơn các cuộc khủng hoảng.
Cách dùng Depression cho 'Suy thoái'
Kinh tế học : Hệ số gia tăng vốn đầu ra ICOR (Incremental Capital Output Ratio) là gì? Ứng dụng của ICOR trong hoạch định chính sách?
ICOR (Incremental Capital Output Ratio) là hệ số xác định mối quan hệ tỷ lệ giữa “Sự thay đổi của quy mô vốn sản xuất” với “Sự thay đổi tổng sản lượng quốc gia”.
Theo Roy Harrod – Evsey Domar, 1940:
Theo Roy Harrod – Evsey Domar, 1940:
Trong đó vốn sản xuất gồm: (1) Công xưởng, nhà máy; (2) Trụ sở, cơ quan các đơn vị kinh doanh sản xuất; (3) Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải; (5) Tồn kho hàng hóa; (4) Cơ sở hạ tầng.
Các nước đang phát triển thiên về sử dụng lao động nhiều hơn nên ICOR thấp hơn so với các nước phát triển.
Từ những phép biến đổi đại số đơn giản, ta được kết quả:
Tốc độ tăng trưởng gY = s / ICOR
s là tỷ lệ tiết kiệm (s = S.Y)
Như vậy, để đẩy nhanh tăng trưởng thì cần tăng tiết kiệm và giảm ICOR. Chúng ta có thể dự báo tốc độ tăng trưởng hoặc tỷ lệ đầu tư... khi biết các đại lượng khác.
Kinh tế học : Hệ số gia tăng vốn đầu ra ICOR (Incremental Capital Output Ratio) là gì? Ứng dụng của ICOR trong hoạch định chính sách?
Kinh tế học : Hệ số gia tăng vốn đầu ra ICOR (Incremental Capital Output Ratio) là gì? Ứng dụng của ICOR trong hoạch định chính sách?
Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012
Ai giàu nhất trên sàn chứng khoán VN năm 2011?
Sự "khắc nghiệt" của thị trường chứng khoán đã tạo ra nhiều kịch tính trong bảng xếp hạng những người giàu nhất trên sàn năm nay.
Người tăng thêm cả 1.000 tỉ đồng sau 1 năm nhưng cũng chỉ trong từng đó thời gian, có doanh nhân đã "mất" tới vài ngàn tỉ đồng. Người bứt phá ngoạn mục nhưng cũng nhiều gương mặt bị đánh bật khỏi top 10 trong bảng xếp hạng "Người giàu nhất trên sàn chứng khoán VN năm 2011".
Ông Phạm Nhật Vượng vẫn giàu nhất
Vững vị trí số 1 năm nay vẫn là doanh nhân nổi tiếng của Công ty Vincom Phạm Nhật Vượng với giá trị tài sản tính đến phiên giao dịch ngày hôm qua là 16.764 tỉ đồng, tăng gần 1.000 tỉ đồng so với năm ngoái. Đây là năm thứ 2 liên tiếp, ông Phạm Nhật Vượng "vững ngôi đầu" trong bảng xếp hạng người giàu nhất trên sàn chứng khoán Việt Nam. Sự bứt phá của ông Phạm Nhật Vượng trong bối cảnh sụt giảm chung của cả thị trường đã khiến khoảng cách giữa người đứng đầu và các vị trí tiếp theo trong bảng xếp hạng bị nới rộng. Tài sản của ông Vượng hiện lớn hơn tổng tài sản của 5 người tiếp theo (từ vị trí số 2 đến số 6) cộng lại.
Vẫn đứng vị trí thứ 2 trong top 10 người giàu nhất trên sàn chứng khoán năm 2011 nhưng giá trị tài sản của ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAG) chỉ còn 4.348 tỉ đồng. So với con số 11.366 tỉ đồng của năm 2010, tài sản của "bầu" Đức đã "bốc hơi" 2/3 giá trị. Thị trường chứng khoán ảm đạm đang khiến con đường đi tới ước mơ trở thành "tỉ phú USD đầu tiên của Việt Nam" của bầu Đức ngày càng dài thêm.
Vị trí thứ 3 của năm nay thuộc về bà Phạm Thu Hương, Công ty Vincom, vợ của ông Phạm Nhật Vượng với tổng tài sản trị giá 2.891 tỉ đồng. Năm ngoái, bà Hương xếp vị trí thứ 6. Bứt phá ngoạn mục từ vị trí cuối cùng của "top 10" trong bảng xếp hạng những người giàu nhất trên sàn chứng khoán năm 2010 lên vị trí thứ 4 năm nay là bà Hoàng Thị Yến, Tập đoàn Masan với tài sản 1.971 tỉ đồng, tăng thêm trên 400 tỉ đồng. Ngược lại, việc giảm tới 3/4 giá trị tài sản so với năm ngoái đã khiến ông Đặng Thành Tâm, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Tân Tạo, "Người giàu nhất trên sàn chứng khoán năm 2007" tụt xuống vị trí số 8 với tài sản chỉ còn 1.399 tỉ đồng so với 4.042 của năm 2010.
Giữ vị trí thứ 5 là gương mặt hoàn toàn mới, ông Hồ Hùng Anh, Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Masan với 1.789 tỉ đồng. Ông chủ Công ty cổ phần phát triển bất động sản Phát Đạt, Nguyễn Văn Đạt giữ vị trí số 7 với tài sản 1.455 tỉ đồng. "Chốt bảng" là Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Đại Dương, ông Hà Văn Thắm. Ông Thắm là gương mặt mới trong top 10 năm nay với tài sản 862 tỉ đồng. Bị đánh bật ra khỏi top 10 là bà chủ của Công ty Quốc Cường Gia Lai Nguyễn Như Loan, Chủ tịch Công ty chứng khoán Sài Gòn - Nguyễn Duy Hưng và Chủ tịch Tập đoàn Tân Tạo - Đặng Thị Hoàng Yến.
Một năm "mất" 7.000 tỉ đồng
Xét về con số tuyệt đối, đây là mức "bốc hơi" lớn nhất về giá trị tài sản trong bảng xếp hạng năm nay so với năm ngoái và có lẽ cũng là mức hao hụt kỷ lục trên sàn chứng khoán VN từ trước tới nay. Người "mất" trên 7.000 tỉ đồng trong năm 2011 này là ông chủ HAG Đoàn Nguyên Đức.
Việc mất cả ngàn tỉ đồng chỉ trong một năm còn gặp ở nhiều gương mặt lọt vào top 10 của bảng xếp hạng năm nay. Cụ thể, ông Đặng Thành Tâm "mất" khoảng 2.000 tỉ đồng; ông Trần Đình Long (Tập đoàn Hòa Phát) "mất" 1.623 tỉ đồng... Giá trị hao hụt cực lớn nhưng việc này không quá bất ngờ với nhiều người bởi 2011 là năm cực kỳ khó khăn của thị trường chứng khoán VN. Nếu tổng tài sản của 10 người giàu nhất trên sàn năm 2010 đạt 48.406 tỉ đồng thì năm nay, chỉ còn 34.728 tỉ đồng, giảm tới 13.678 tỉ đồng. Nếu phiên giao dịch cuối cùng của năm ngoái, VN-Index đóng cửa ở mức 484,66 điểm thì phiên giao dịch "chốt" năm 2011, chỉ số này chỉ còn 348 điểm.
Tuy nhiên, việc sụt giảm là tình trạng chung của chứng khoán toàn cầu và nhiều tỉ phú trên thế giới cũng rơi vào tình trạng bị bốc hơi tài sản một cách nhanh chóng. Vụ mất kỷ lục nhất cho tới thời điểm này thuộc về tỉ phú giàu thứ 3 của Mỹ, sáng lập viên kiêm giám đốc điều hành của hãng công nghệ Oracle, ông trùm Larry Ellison khi bị hao hụt 4 tỉ USD trong chưa đầy một ngày. Đó là phiên giao dịch ngày 21.12 khi cổ phiếu của hãng này giảm tới 14%. Có thể thấy, chưa bao giờ sự "khắc nghiệt" của chứng khoán thể hiện rõ ràng như năm nay.
Thứ hạng, giá trị tài sản, gương mặt cũ - mới đã có nhiều thay đổi kịch tính nhưng điểm chung là doanh nghiệp bất động sản vẫn góp mặt nhiều nhất trong bảng xếp hạng năm nay cũng như các năm trước.
Những người giàu nhất qua các năm | ||
Năm | Họ và tên | Tài sản (tỉ đồng) |
2006 | Trương Gia Bình - Công ty FPT | 2.354 |
2007 | Đặng Thành Tâm - Tập đoàn Tân Tạo, Kinh Bắc | 6.293 |
2008 | Đoàn Nguyên Đức - Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai | 6.159 |
2009 | Đoàn Nguyên Đức - Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai | 11.439 |
2010 | Phạm Nhật Vượng - Tập đoàn Vincom | 15.775 |
2011 | Phạm Nhật Vượng - Tập đoàn Vincom | 16.764 |
10 người giàu nhất năm 2011 | ||
TT | Họ và tên | Tài sản (tỉ đồng) |
1 | Phạm Nhật Vượng | 16.764 |
2 | Đoàn Nguyên Đức | 4.348 |
3 | Phạm Thu Hương | 2.891 |
4 | Nguyễn Hoàng Yến | 1.971 |
5 | Phạm Thúy Hằng | 1.919 |
6 | Hồ Hùng Anh | 1.789 |
7 | Nguyễn Văn Đạt | 1.445 |
8 | Đặng Thành Tâm | 1.399 |
9 | Trần Đình Long | 1.340 |
10 | Hà Văn Thắm | 862 |
Theo Nguyên Khanh - Thanhnien.com.vn
Ai giàu nhất trên sàn chứng khoán VN năm 2011?
Hợp nhất, sáp nhập trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hiện nay
Nhiệm vụ chính của hệ thống ngân hàng (NH) là biến tiết kiệm thành đầu tư dài hạn. Tuy nhiên, NH Việt Nam chưa làm được điều này và phần lớn tiết kiệm quốc gia đổ vào đầu cơ. Đặt việc tái cấu trúc NH dưới góc nhìn này, cựu Giám đốc NH bang Vaud (Thụy Sĩ), chuyên gia tư vấn chiến lược NH Phạm Nam Kim đã chia sẻ với Thanh Niên nhiều ý kiến quanh vấn đề đang nóng bỏng hiện nay.
Tái cấu trúc NH đã khởi động bằng việc hợp nhất, sáp nhập các NH thanh khoản yếu, ông nhận xét gì về việc này?
Tôi cho rằng chúng ta đang quá chú trọng đến một vấn đề nhỏ, đó là sáp nhập mà quên đi ngành NH yếu ở điểm khác. Đó là tình trạng "mượn đầu heo nấu cháo" về kỳ hạn. Có thể khẳng định, tất cả hệ thống huy động của NH hiện nay đều đặt trên các sản phẩm có kỳ hạn và hầu hết là kỳ hạn ngắn do sự thiếu ổn định của lãi suất. Khi người ta thấy lãi suất biến động mạnh và có xu thế tăng nhanh thì không ai muốn gửi kỳ hạn dài. Người dân gửi tiết kiệm kỳ hạn ngắn nhưng doanh nghiệp vay đầu tư kỳ hạn dài. Sự mất thăng bằng kỳ hạn giữa tiết kiệm và đầu tư đã khiến các NH dùng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn và rơi vào tình trạng thiếu hụt thanh khoản. Vì vậy, tái cấu trúc NH phải tập trung cốt yếu vào việc thay đổi căn bản huy động vốn hiện nay.
![]() Nhiệm vụ của ngân hàng là biến tiết kiệm thành vốn đầu tư - Ảnh: D.Đ.M |
Cụ thể thay đổi "căn bản huy động" như thế nào, thưa ông?
Ở hầu hết các quốc gia khác, gửi tiền cho đại chúng chỉ có 2 hình thức. Đó là gửi không kỳ hạn (sử dụng ATM) và gửi tiết kiệm với thời hạn là khả năng rút tiền theo quy định. Nếu rút trước thời hạn, sẽ bị phạt. Ví dụ, bạn gửi 1 tỉ đồng vào NH, bạn có khả năng rút ra tối đa 10 triệu đồng/tháng. Nếu muốn rút 50 triệu đồng, phải báo trước 3 tháng; từ 50-500 triệu đồng phải 6 tháng. Còn muốn rút hết, phải bồi thường. Làm vậy, sẽ ổn định được nguồn gửi tiết kiệm dài hạn từ dân cư, tổ chức và giúp hệ thống NH cân bằng được kỳ hạn giữa tiền gửi và tiền vay, giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản hiện nay. Còn loại lãi suất gửi tiền có kỳ hạn từ 6 tháng, 9 tháng, 1 năm thịnh hành ở VN thì ở nước ngoài, hình thức này chỉ dành cho doanh nghiệp, các tổ chức. Gửi kỳ hạn ngắn, phải là nguồn vốn lớn. Đây là xu hướng của tất cả các quốc gia khác và VN cũng không thể ngoại lệ.
Chính phủ kêu gọi tái cấu trúc nền kinh tế nhưng tiền ở đâu để tái cấu trúc khi vốn ODA, FDI đang giảm? Chúng ta phải trông vào nguồn gì nếu không phải là tiết kiệm quốc gia? Nếu vẫn để tình trạng tiết kiệm quốc gia đổ vào đầu cơ như thời gian qua, không thể nói đến tái cấu trúc nền kinh tế |
Lưu ý là giải pháp này phải áp dụng đồng bộ lên cả hệ thống NH thì mới thành công. Còn chỉ một hay vài NH thực hiện, vốn tất nhiên sẽ chảy từ chỗ này qua chỗ khác, giải pháp sẽ thất bại.
Giải pháp của ông đặt NH ở vai trò quyết định nhưng thực tế các NH trong nước đang phải cạnh tranh gay gắt với các kênh đầu tư khác trong việc huy động vốn. Nên cho dù áp dụng trên cả hệ thống như ông nói, cũng khó tránh được khả năng rút vốn ồ ạt để chuyển sang các kênh khác?
Tất nhiên không thể triển khai đơn thuần mà phải đồng loạt các biện pháp. Đó là thắt chặt thị trường đầu cơ vàng, ngoại tệ. Việc này cũng đã được NHNN triển khai mạnh trong thời gian qua. Nếu tiếp tục thắt chặt các kênh này, sẽ chỉ còn một giải pháp là gửi tiết kiệm và đây là việc chúng ta phải làm. Chính phủ kêu gọi tái cấu trúc nền kinh tế nhưng tiền ở đâu để tái cấu trúc khi vốn ODA, FDI đang giảm? Chúng ta phải trông vào nguồn gì nếu không phải là tiết kiệm quốc gia? Nếu vẫn để tình trạng tiết kiệm quốc gia đổ vào đầu cơ như thời gian qua, không thể nói đến tái cấu trúc nền kinh tế.
Nghĩa là tái cấu trúc kinh tế thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào tái cấu trúc hệ thống NH?
Đúng thế. Tất cả các nước đều phát triển dựa trên tiết kiệm quốc gia. Đó là khoản tiền dư mà doanh nghiệp, người dân không dùng đến, gửi tiết kiệm NH. Chức năng của một NH là biến đổi tiết kiệm thành đầu tư dài hạn để phục vụ cho kinh tế quốc gia. Khi họ không đảm nhiệm công việc này là không làm tròn nhiệm vụ của họ. Hiện tại, NH Việt Nam cũng cho vay doanh nghiệp, nhưng chủ yếu là lấy ngắn hạn cho vay dài hạn. Một doanh nghiệp đầu tư lâu dài, không thể chỉ vay 6 hay 12 tháng. Chúng ta có thể nhìn thấy các hồ sơ "đẹp"; những kỳ hạn huy động, cho vay "khớp" nhau nhưng trên thực tế không phải như vậy. Họ có nhiều cách để "lách" như đảo nợ khi đáo hạn, hoặc đổi sang NH khác. Đó là lý do các NH triền miên trong rủi ro thanh khoản. Nên để có được nguồn tiết kiệm quốc gia ổn định phục vụ phát triển đất nước, chỉ có cách mà tôi đã nói trên. Trên thế giới, nước nào cũng áp dụng giải pháp này. Ngay cả thời kỳ những năm 1980 khi mà lạm phát cao ở nhiều nước, hệ thống này vẫn chạy như thường.
Bên cạnh đó, phải thúc đẩy thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu phát triển. Thị trường trái phiếu không phải là thị trường đại chúng nên cần có quy định bắt buộc các quỹ, các tổ chức, bảo hiểm... phải dành một tỷ lệ vốn tối thiếu để mua trái phiếu. Như vậy sẽ có thêm nguồn vốn dài hạn để phục vụ việc phát triển đất nước bên cạnh nguồn tiết kiệm từ NH như nói trên.
Nguyên Khanh - Thanhnien.com.vn
Hợp nhất, sáp nhập trong tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hiện nay
Bí mật của những người triệu phú
Bất cứ ai cũng có những bí mật và các triệu phú không phải ngoại lệ. Những tiết lộ dưới đây sẽ làm chúng ta phải ngạc nhiên.
1. Bạn có thể nghĩ tôi nhiều tiền, nhưng tôi thì không nghĩ như vậy
![]() |
Theo một nghiên cứu tại Mỹ, 46% triệu phú được hỏi cho biết không cảm thấy mình là người giàu có. Họ luôn quan tâm lo lắng tới các vấn đề như sức khoẻ, hưu trí và cả việc duy trì cuộc sống thường ngày. Thực tế cho thấy, rất nhiều triệu phú không đủ khả năng chi trả cho sự xa hoa vốn có của mình. Với tình hình kinh tế như hiện nay, mỗi năm họ phải bỏ ra 300.000 USD để nuôi tấm thẻ thành viên câu lạc bộ chơi golf hạng sang, 2,9 triệu USD cho các chi tiêu hàng ngày thay vì một triệu USD như trong quá khứ. Khoảng 2/3 trong số các tỷ phú sở hữu khối tài sản có giá trị ròng 2,5 triệu USD hoặc ít hơn thế. Vì vậy, cảm giác "giàu có" chưa bao giờ là đủ. Ảnh: AFP |
2. Tôi mua đồ ở siêu thị Wal-Mart
![]() |
Phần lớn triệu phú thường đi lên từ các gia đình thuộc tầng lớp trung lưu và 65% trong số họ mới giàu có khoảng 15 năm trở lại đây. Họ có thể không mua khăn giấy giá 99 xu nhưng vẫn biết giá của chúng là bao nhiêu để tiết kiệm tiền. Khoảng 84% cho biết họ thường xuyên mua hàng hiệu theo các đợt giảm giá, săn tìm những phiếu khuyến mại và có mặt tại chuỗi các cửa hàng bán lẻ như Wal-Mart, Costco... Các cuộc khủng hoảng tài chính gần đây càng khiến cho giới thu nhập 6 chữ số này cẩn thận hơn trong việc mua sắm. Ảnh: AFP |
3. Tôi không giàu nhờ bủn xỉn
![]() |
Vậy làm thế nào để trở thành triệu phú? Có một cách là tạo lập doanh nghiệp tư nhân. Theo cuộc khảo sát của AmEx/Harrison thì một phần ba số triệu phú kiếm tiền theo cách này và chỉ 5% giàu nhờ thừa kế. Các triệu phú thường có những quyết định rất gắt gao về việc sử dụng những khoản nợ . Jim Bell – Giám đốc hãng tư vấn đầu tư Bell – hiện sở hữu căn nhà trả góp trị giá 1,5 triệu USD, cho biết: "Bất cứ ai nghiêm túc làm giàu cũng đều muốn mua một căn nhà trả góp. Tôi đã thanh toán hết 900.000 USD, phần còn lại chưa cần thiết phải trả ngay". Và Jim đã đầu tư số tiền còn lại cho công ty. Ảnh: Blogspot.com |
4. Tôi có “người quen” ở mọi nơi
![]() |
Những nhà hàng nổi tiếng, ghế VIP hoặc các tiệm Spa bạn muốn đến đều có thể đã bị đặt sẵn trước cả tháng và bạn không còn cách nào khác ngoài chờ đợi cho tới tháng sau. Với các triệu phú, họ có người quen ở khắp nơi. Chỉ một cuộc điện thoại, họ sẽ có ngay bàn VIP tại một nhà hàng sang trọng ưa thích hoặc được vào khám bệnh trực tiếp mà không cần phải xếp hàng chờ đợi tới lượt. (Ảnh: investmentbankersnetwork.com) |
5. Bạn không thể làm giàu nếu cứ sống tử tế
![]() |
Rất nhiều triệu phú đã kín đáo thừa nhận họ từng có hành vi xấu chơi trong kinh doanh. Tuy vậy, thất bại cũng không là vấn đề khiến họ nản chí. (Ảnh: popsci.com) |
6. Những khoản thuế chỉ dành cho một số ít người
![]() |
Thực tế, 1% số người giàu nhất phải đóng thuế lên tới 40% trên tổng thu nhập của mình . Tuy vậy, họ đã sử dụng rất nhiều hình thức khác nhau như khai báo giá tài sản thương mại thấp hơn và tăng các khoản chi phí để được hưởng ưu đãi thuế, nhằm bảo vệ khối tài sản kếch xù. Đây là cách mà giới siêu giàu thường làm. (Ảnh: ticotimes.net) |
7. Tôi từng bị điểm B
![]() |
Khi được hỏi về chìa khoá thành công, câu trả lời đầu tiên của các triệu phú thường là “chăm chỉ lao động”, đứng thứ hai là “quyết tâm” và cuối cùng là “tôn trọng người khác”. Jim Taylor – Phó chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn Harrison – cho rằng: “Những thứ chúng ta hấp thu ở trường không quan trọng bằng cách chúng ta học và tuân thủ kỷ luật”. (Ảnh minh hoạ) |
8. Bạn thích chiếc Ferrari của tôi? - Nó chỉ là đồ đi thuê
![]() |
Thật phí phạm nếu phải bỏ ra 250.000 USD để sở hữu một chiếc Ferrari trong khi chi phí đi thuê chỉ có 10 nghìn USD và bạn sẽ chỉ sử dụng chiếc xe này vài tuần trong một năm. Ngoài siêu xe, giờ đây những triệu phú này còn có thú vui là đi thuê đồ trang sức. Laura Carrington – sáng lập viên, giám đốc tạo mẫu tại Adorn – cho biết: “Chúng tôi đã gặp những vị khách giàu có không bao giờ chịu bỏ ra 5.000 USD để mua trang sức cao cấp nhưng sẵn sàng dùng 200 USD để thuê chúng”. (Ảnh: flipwallpapers.com) |
9. Hoá ra tiền bạc có thể mua được hạnh phúc
![]() |
Thực tế cho thấy, việc nhiều tiền giúp chúng ta có những cơ hội trải nghiệm khác nhau. Theo nghiên cứu của Wharton, những người giàu có xu hướng sức khoẻ tốt hơn, tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm thấp hơn so với phần còn lại của dân số. (Ảnh: oguestatus.edublogs.org) |
10. Khi bạn lo lắng việc phấn đấu bằng người đồng nghiệp, tôi theo đuổi đích đến của tỷ phú Trumps
![]() |
Sự giàu sang có thể đi một chặng đường dài hướng tới việc tạo ra hạnh phúc, nhưng những người giàu có thuộc tầng lớp trung lưu vẫn chưa đủ khả năng cho cuộc sống của một tỷ phú. Họ cần phải tiếp tục kiếm tiền, leo lên những nấc thang danh vọng mới và khẳng định thương hiệu mạnh mẽ hơn. (Ảnh: AFP) |
Tường Vi Express.net
Bí mật của những người triệu phú
Những vũ khí bí mật trong chiến tranh kinh tế âm thầm
Để giành giật thị trường, một số công ty sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn: tình báo, gây xào xáo nội bộ đối phương, tung tin thất thiệt... Đôi khi còn có sự thông đồng của các cơ quan tình báo của quốc gia sở tại.
Đầu tháng 3-2008, công ty sản xuất máy bay châu Âu EADS giành được hợp đồng thế kỷ: Lầu Năm Góc đặt mua 179 máy bay tiếp tế cho không quân Mỹ. Tổng doanh số 35 tỉ USD! Boeing, đối thủ chính của EADS, kinh hoàng. Bằng cách nào một công ty châu Âu - cho dù có hợp tác với nhóm Northrop Grumman tại Mỹ đi nữa - lại có thể “hớt tay trên” ngay trên sân nhà của nó?
Lập tức sau đó mọi biện pháp đã được tung ra để đối phó với cái nhục “quốc thể” này, thậm chí cả những thủ đoạn tồi bại. Thoạt đầu, Boeing móc ráp mua lại hợp đồng của đối thủ thông qua một quan chức của Lầu Năm Góc. Thế nhưng khi vị này đã cắn câu của Boeing thì mọi việc vỡ lở. Chính thượng nghị sĩ John McCain, ứng cử viên tổng thống Đảng Cộng hòa, đã nhảy vào can thiệp và dẹp bỏ vụ mua bán này.
Nhiều tác nhân khác cũng nhảy ra hà hơi tiếp sức Boeing tấn công lại đối thủ của mình. Các đòn trả đũa chủ yếu được tiến hành bởi Trung tâm Phụ trách chính sách an ninh (CSP), một cơ quan bao gồm những bộ não chuyên vạch ra các chính sách chiến lược của Mỹ, có quan hệ thân cận với phe tân bảo thủ và giới công nghiệp quân sự Mỹ. CSP tung ra một cuộc chiến thông tin chống lại EADS.
Trên Internet, họ tố giác EADS lừa gạt dư luận Mỹ khi ngụy trang EADS như một công ty Mỹ: xuất hiện một sô quảng cáo trong đó đưa lên hình ảnh các nhân viên Mỹ được EADS trả lương. Đòn kế tiếp: CSP tố cáo thẳng thừng EADS và nước Pháp dùng thủ đoạn tình báo đối với các công ty Mỹ mà không hề có bằng chứng nào! Và đòn sau cùng: quả quyết EADS cung cấp vũ khí cho chế độ của Tổng thống Venezuela Hugo Chavez bất chấp lệnh cấm vận chính thức. Christian Harbulot, giám đốc Trường đào tạo chiến tranh kinh tế, giải thích: “CSP bào chế những bài báo và tư liệu gửi đến các nhân vật lãnh đạo công luận tại Mỹ để họ xuất hiện trên website của mình. Bởi thế, sức phản hồi thật khủng khiếp”.
Từ 15 năm qua, các báo cáo thương mại đều làm như rất tiến bộ. “Người Mỹ thích huyên thuyên về cạnh tranh và cạnh tranh. Nhưng đúng là đã có một cuộc chiến giành giật thị trường. Và để chiến thắng, mọi phương tiện đều tốt: lobby, móc nối, gây rối loạn hàng ngũ đối phương...” - Christian Harbulot nói tiếp. Các nhà tình báo kinh tế chuyên nghiệp lập ra những “đơn vị tàng hình” bố trí trên trận địa tàn khốc này. Phục vụ các công ty đa quốc gia cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ được thuê mướn để bảo vệ khách hàng của mình khỏi những mối đe dọa từ bên ngoài hay theo phò tá trong các cuộc chinh phục thị trường. Nói rằng những chiến binh cổ trắng - trí thức - này luôn biết tôn trọng “luật chơi” là... hàm hồ! Tuy nhiên phần lớn các phương pháp của họ đều hoàn toàn... hợp pháp.
Trong thế giới kỹ thuật số, nơi 90% thông tin đều có thể lấy được qua Internet, báo chí, hội thảo... bước đầu tiên của một nhà tình báo kinh tế là thu gom tư liệu. 90% thông tin này được gọi là “trắng”, còn 10% thuộc loại mơ hồ. Thông tin được gọi là “xám” khi thu thập được bằng phương tiện không chính đáng. Chẳng hạn giả dạng nhà báo để biết rõ hơn về chiến lược của một công ty. Thông tin gọi là “đen” khi được thu thập hoàn toàn bất hợp pháp, như xâm nhập hệ thống vi tính hay đánh cắp laptop trên xe lửa. Không có quy luật, chẳng có quy tắc đạo đức nào để ngăn chặn các hành động đó. Chỉ có biện pháp trừng phạt duy nhất là làm mất uy tín của công ty đó trước mắt cổ đông và khách hàng... hay kiện ra tòa khi mọi việc đã diễn tiến tồi tệ.
Muốn dự kiến tình hình, phải biết rõ đối thủ của mình: Họ có mạnh không? Họ thật sự có khả năng đầu tư không? Chiến lược phát triển của họ là gì? Trong phòng thí nghiệm của họ đang có những cải tiến nào đủ sức làm đảo lộn thị trường? Nguồn vốn bị xé lẻ có làm họ yếu đi không? Có thể mua đứt họ được không? Những nhân vật then chốt của họ là ai? Tất cả thông tin này sẽ giúp dựng nên một chân dung và môi trường của mục tiêu.
Muốn có được những thông tin đó không thể chỉ dựa vào các tạp chí kinh tế hay sục sạo trên Internet. Phải biết khởi động mạng lưới các chuyên gia để đánh trúng cửa: nhà luật học, phân tích thị trường, chuyên gia lobby... “Nhưng cũng cần đến cả các tác giả đoạt giải Nobel kinh tế, các quan chức lớn đã về hưu hay các ông cựu bộ trưởng” như lời khuyến cáo của một chuyên gia chuyên thực hiện những hoạt động này. Cũng phải thêm: “Ngay cả những kẻ vô danh vẫn có thể giúp ta tiếp cận mục tiêu. Chẳng hạn ông thầy dạy đánh tennis của một quan chức tài chính”.
Các viện bào chế dược là khách hàng lớn của văn phòng tình báo kinh tế
Đầu tháng 3-2008, công ty sản xuất máy bay châu Âu EADS giành được hợp đồng thế kỷ: Lầu Năm Góc đặt mua 179 máy bay tiếp tế cho không quân Mỹ. Tổng doanh số 35 tỉ USD! Boeing, đối thủ chính của EADS, kinh hoàng. Bằng cách nào một công ty châu Âu - cho dù có hợp tác với nhóm Northrop Grumman tại Mỹ đi nữa - lại có thể “hớt tay trên” ngay trên sân nhà của nó?
Lập tức sau đó mọi biện pháp đã được tung ra để đối phó với cái nhục “quốc thể” này, thậm chí cả những thủ đoạn tồi bại. Thoạt đầu, Boeing móc ráp mua lại hợp đồng của đối thủ thông qua một quan chức của Lầu Năm Góc. Thế nhưng khi vị này đã cắn câu của Boeing thì mọi việc vỡ lở. Chính thượng nghị sĩ John McCain, ứng cử viên tổng thống Đảng Cộng hòa, đã nhảy vào can thiệp và dẹp bỏ vụ mua bán này.
Nhiều tác nhân khác cũng nhảy ra hà hơi tiếp sức Boeing tấn công lại đối thủ của mình. Các đòn trả đũa chủ yếu được tiến hành bởi Trung tâm Phụ trách chính sách an ninh (CSP), một cơ quan bao gồm những bộ não chuyên vạch ra các chính sách chiến lược của Mỹ, có quan hệ thân cận với phe tân bảo thủ và giới công nghiệp quân sự Mỹ. CSP tung ra một cuộc chiến thông tin chống lại EADS.
Trên Internet, họ tố giác EADS lừa gạt dư luận Mỹ khi ngụy trang EADS như một công ty Mỹ: xuất hiện một sô quảng cáo trong đó đưa lên hình ảnh các nhân viên Mỹ được EADS trả lương. Đòn kế tiếp: CSP tố cáo thẳng thừng EADS và nước Pháp dùng thủ đoạn tình báo đối với các công ty Mỹ mà không hề có bằng chứng nào! Và đòn sau cùng: quả quyết EADS cung cấp vũ khí cho chế độ của Tổng thống Venezuela Hugo Chavez bất chấp lệnh cấm vận chính thức. Christian Harbulot, giám đốc Trường đào tạo chiến tranh kinh tế, giải thích: “CSP bào chế những bài báo và tư liệu gửi đến các nhân vật lãnh đạo công luận tại Mỹ để họ xuất hiện trên website của mình. Bởi thế, sức phản hồi thật khủng khiếp”.
Từ 15 năm qua, các báo cáo thương mại đều làm như rất tiến bộ. “Người Mỹ thích huyên thuyên về cạnh tranh và cạnh tranh. Nhưng đúng là đã có một cuộc chiến giành giật thị trường. Và để chiến thắng, mọi phương tiện đều tốt: lobby, móc nối, gây rối loạn hàng ngũ đối phương...” - Christian Harbulot nói tiếp. Các nhà tình báo kinh tế chuyên nghiệp lập ra những “đơn vị tàng hình” bố trí trên trận địa tàn khốc này. Phục vụ các công ty đa quốc gia cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ được thuê mướn để bảo vệ khách hàng của mình khỏi những mối đe dọa từ bên ngoài hay theo phò tá trong các cuộc chinh phục thị trường. Nói rằng những chiến binh cổ trắng - trí thức - này luôn biết tôn trọng “luật chơi” là... hàm hồ! Tuy nhiên phần lớn các phương pháp của họ đều hoàn toàn... hợp pháp.
Trong thế giới kỹ thuật số, nơi 90% thông tin đều có thể lấy được qua Internet, báo chí, hội thảo... bước đầu tiên của một nhà tình báo kinh tế là thu gom tư liệu. 90% thông tin này được gọi là “trắng”, còn 10% thuộc loại mơ hồ. Thông tin được gọi là “xám” khi thu thập được bằng phương tiện không chính đáng. Chẳng hạn giả dạng nhà báo để biết rõ hơn về chiến lược của một công ty. Thông tin gọi là “đen” khi được thu thập hoàn toàn bất hợp pháp, như xâm nhập hệ thống vi tính hay đánh cắp laptop trên xe lửa. Không có quy luật, chẳng có quy tắc đạo đức nào để ngăn chặn các hành động đó. Chỉ có biện pháp trừng phạt duy nhất là làm mất uy tín của công ty đó trước mắt cổ đông và khách hàng... hay kiện ra tòa khi mọi việc đã diễn tiến tồi tệ.
Muốn dự kiến tình hình, phải biết rõ đối thủ của mình: Họ có mạnh không? Họ thật sự có khả năng đầu tư không? Chiến lược phát triển của họ là gì? Trong phòng thí nghiệm của họ đang có những cải tiến nào đủ sức làm đảo lộn thị trường? Nguồn vốn bị xé lẻ có làm họ yếu đi không? Có thể mua đứt họ được không? Những nhân vật then chốt của họ là ai? Tất cả thông tin này sẽ giúp dựng nên một chân dung và môi trường của mục tiêu.
Muốn có được những thông tin đó không thể chỉ dựa vào các tạp chí kinh tế hay sục sạo trên Internet. Phải biết khởi động mạng lưới các chuyên gia để đánh trúng cửa: nhà luật học, phân tích thị trường, chuyên gia lobby... “Nhưng cũng cần đến cả các tác giả đoạt giải Nobel kinh tế, các quan chức lớn đã về hưu hay các ông cựu bộ trưởng” như lời khuyến cáo của một chuyên gia chuyên thực hiện những hoạt động này. Cũng phải thêm: “Ngay cả những kẻ vô danh vẫn có thể giúp ta tiếp cận mục tiêu. Chẳng hạn ông thầy dạy đánh tennis của một quan chức tài chính”.
Các viện bào chế dược là khách hàng lớn của văn phòng tình báo kinh tế
![]() |
Cách nay hai năm, một hãng bào chế dược của Pháp tiếp cận một công ty Mỹ để tìm cách mua lại nó. Hai bên đã đồng ý trên nguyên tắc nhưng không ai đưa ra trước giá bán hay giá mua. Khi đó bên dự định mua liên hệ với một văn phòng tình báo kinh tế tại Paris. Mục tiêu: ước tính tổng giá trị của công ty Mỹ này. Văn phòng tình báo đã tiếp cận một số thành viên thuộc ban lãnh đạo của công ty Mỹ, thông qua các nhà báo tài chính và chuyên gia phân tích kinh tế “có vẻ vô tội”.
Khi nắm được đầy đủ thông tin, vụ mua bán có thể được kết thúc chỉ trong vài ngày: người Mỹ sẵn sàng bán lại với giá tối thiểu 115 triệu euro, thấp hơn ước tính của công ty Pháp đến 35 triệu euro. Một số tiền tiết giảm khổng lồ! Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Văn phòng tình báo tại Paris cũng tiếp cận nhân viên phòng nghiên cứu và phát triển của công ty Mỹ và phát hiện công ty này rất lo sợ một sản phẩm cạnh tranh mới sắp được tung ra thị trường, do một công ty nhỏ và vừa của Pháp đã chế tạo thành công. Kết quả: thay vì bỏ ra 115 triệu để mua đối thủ Mỹ, họ chỉ cần mua bản quyền sản phẩm của công ty nhỏ nọ để... sản xuất. Và giá mua chỉ 200.000 euro!
Bào chế dược, một lĩnh vực cực kỳ cạnh tranh, luôn là khách hàng lớn của các văn phòng tình báo kinh tế. Trong các hội chợ chuyên ngành, nhiều “điệp viên” thường được tuyển mộ để canh chừng những gian hàng kế bên. Họ rình rập ngày đêm xem khách hàng của đối thủ, nghe những người khách nói chuyện gì, theo dõi chuyện mua bán của những người đó để biết nhu cầu đặt hàng.
Một nhà tư vấn giải thích: “Loại rình rập này rất hữu hiệu để bảo vệ uy tín của mình và triệt hạ đối phương”. Một điệp viên theo dõi ông chủ người Anglo - Saxon tiết lộ: “Mục tiêu là tìm hiểu chiến lược của ông ta, các đối tác và nhất là những tiếp xúc. Tôi phải biết lịch làm việc của ông ta. Những người mà ông ta phải gặp: nhà báo, nhà tài chính, luật sư, chuyên gia lobby, chính trị gia...”.
Bị tấn công, các công ty phải chống đỡ. Ở các thị trường Đông Âu hay châu Á, nơi luật pháp còn lỏng lẻo, các công ty châu Âu và Mỹ phải làm thế nào để có thể tìm được người hợp tác?
Một văn phòng tình báo kinh tế của Anh cho biết: “Chúng tôi làm việc được một năm tại một quốc gia ở Đông Âu. Chúng tôi phát hiện một chiến lược rất tinh quái để thu hút các công ty đa quốc gia châu Âu và Mỹ vào tròng. Tròng ở đây là để các công ty này đầu tư những khoản tiền khổng lồ vào các nhà máy sản xuất để sau đó... thanh tra tài chính nhằm tìm cớ tịch thu nhà máy hiện đại đó, hoặc bán lại với giá rất cao các cổ phần rất nhỏ mà họ đang nắm giữ”.
Nạn nhân của những đòn phép tương tự như thế là Công ty ngũ cốc Mỹ Bunge. Sau khi mua lại một nhà máy sản xuất dầu ăn tại Dniepropetrovsk, Ukraine với giá vài triệu USD, Bunge đã phải hứng chịu rất nhiều đòn tấn công. Thoạt đầu, Bunge trở thành nạn nhân của đòn thông tin thất thiệt. Nhà máy của Bunge bị kết án làm ô nhiễm môi trường. Lời cáo buộc này đã bị bác bỏ sau đó bởi một cuộc điều tra của hội đồng thành phố.
Thông qua một công ty nhỏ, “ông trùm” tìm cách mua lại cổ phần của công nhân để kiểm soát nhà máy bằng cách dùng đến luật pháp để gây rắc rối. Sau đó công ty nhỏ này đòi chia thêm nhiều cổ phần hơn cho công nhân bằng cách lấy cớ Bunge đã mua lại nó với giá rẻ bèo. Đến nay, cuộc tranh chấp giữa Bunge và “ông trùm” Ukraine còn chưa kết thúc.
Muốn điều tra có hiệu quả tại những nơi này phải không tiếc tiền để mua cho được những người trung gian quý giá. Nhất là những người làm trong các cơ quan an ninh, cảnh sát, nghiệp đoàn hay trong chính phủ. Một chuyên gia đã từng làm việc cho các công ty thời trang và dược của phương Tây tiết lộ: “Không thể nào có được thông tin quý giá và đáng tin cậy về một công ty xuất khẩu hàng giả mà không phải trả phí dịch vụ cho một nhân viên hải quan để y cung cấp chứng cớ chủ chốt”.
Vấn đề trở nên phức tạp khi đối thủ không chỉ là một công ty mà là nhà nước! Nhiều chính phủ không ngần ngại bảo vệ các công ty đa quốc gia của mình bằng mọi giá. Vô địch trong chuyện này là những người Anglo - Saxon! Đầu những năm 1990, sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ đã xác định các ưu tiên mới của mình: quyền lợi kinh tế quốc gia. Bộ máy nhà nước được tổ chức lại để phục vụ quyền lợi các công ty! Một hội đồng an ninh kinh tế được thành lập và được đặt ngang hàng với Hội đồng An ninh quốc gia, nghĩa là ngang hàng với... Nhà Trắng! Mục tiêu của hội đồng này là thông tin cho tổng thống Mỹ để ông kịp thời đưa ra những biện pháp đúng nhằm hỗ trợ sự phát triển kinh tế của nước Mỹ.
Bên cạnh đó, Bộ Thương mại thành lập Advocacy Center (một trung tâm cảnh giới) để theo dõi các đơn hàng gọi thầu quốc tế vượt trên 1 tỉ USD và mời gọi các công ty Mỹ dự thầu! 16 cơ quan tình báo và an ninh quốc gia (CIA, FBI, NSA...) đều có mặt trong trung tâm này. Khi một thị trường có nguy cơ vượt khỏi tầm tay “made in USA”, chính phủ có thể triệu tập ngay một dạng “phòng chiến tranh” (war room) huy động mọi phương tiện có được để giành chiến thắng cho Mỹ.
Người mỹ không hề giấu giếm: họ theo dõi các đồng minh của mình ngay khi xuất hiện một hợp đồng quan trọng!
Hai trường hợp như thế đã xảy ra trong những năm 1990: bán thiết bị báo động điện tử rừng Amazon cho Brazil và bán máy bay đường dài cho Saudi Arabia. Đương đầu với Mỹ, Pháp đã thua trắng. NSA nghe lén cuộc nói chuyện của các nhà thương thuyết Pháp và cung cấp cho báo chí bằng chứng... hối lộ của họ! Người Mỹ không hề giấu giếm: họ theo dõi ngay cả những đồng minh của mình khi ai đó toan tính vượt qua lằn ranh màu vàng.
Ít nhất đó cũng là thú nhận của cựu giám đốc CIA James R. Woosley (1993-1995) trong một bài báo viết trên tờ Wall Street Journal ngày 17-3-2000 mang tựa: Vì sao chúng ta theo dõi đồng minh? Chính phủ Mỹ còn công bố cả danh sách các thị trường mà họ đã từng giúp các công ty chiếm đoạt được. Trong khoảng năm 1994-1997, họ đã góp phần thành công cho 11 hợp đồng trị giá 18 tỉ USD, mang lại hàng ngàn công ăn việc làm.
Các nước khác thì sao? Ngoài Nhật Bản, từng dẫn đầu trong chuyện này cho đến cuối những năm 1980, phần còn lại của thế giới cũng đang hành động. Pháp bừng tỉnh từ giữa những năm 1990. Năm 1994, chính phủ nước này cho công bố một báo cáo của cảnh sát trong đó nhìn nhận chiến tranh kinh tế đang diễn ra ác liệt. Báo cáo cũng giải thích những nét chính trong học thuyết chiến tranh mới này của Nhật Bản và Mỹ song phần nghiên cứu từng trường hợp (trong y dược và hàng không) đã bị cắt bỏ vì Chính phủ Pháp sợ lộ ra sự thiếu phối hợp giữa nhà nước và các công ty của mình. Hội đồng cạnh tranh và an ninh kinh tế (CCSE) quy tụ bảy ông chủ xí nghiệp lớn được thành lập dưới thời chính phủ Balladur, nhưng không hoạt động. Mãi đến năm 2003 khi bản báo cáo Caryon của dân biểu Tarn ra đời thì vấn đề mới được hâm nóng trở lại.
Trong báo cáo này, Tarn đả kích chính phủ đã không giao nhiệm vụ bảo vệ các công ty Pháp cho Cục Giám sát lãnh thổ (DST) phụ trách. Năm tháng sau đó, một quan chức cao cấp phụ trách tình báo kinh tế được bổ nhiệm. Đó là Alain Juillet, nhân vật số 2 của Tổng cục An ninh đối ngoại (DGSE). Cơ quan này trực thuộc phủ thủ tướng, có nhiệm vụ soạn thảo bộ khung tổ chức, lập mạng lưới chuyên gia từ các bộ, thành lập liên hiệp các cơ quan tình báo kinh tế, thành lập hai quỹ đầu tư. Trung tâm Tình báo kinh tế và lãnh thổ (CIET) cũng được thành lập năm 2003 với nhiệm vụ chính là giám sát kỹ thuật sản phẩm và các thị trường. CIET huy động 4.000 công ty xoay quanh đề tài an ninh.
Trong thời đại toàn cầu hóa, chủ nghĩa bảo hộ thương mại không hề được hoan nghênh. Song người Mỹ lại đang ra sức bảo vệ các con cờ của mình một cách triệt để. Họ từ chối yêu cầu của người Ả Rập muốn mua lại sáu hải cảng của nước Mỹ. Họ không cho phép người Trung Quốc mua lại Công ty dầu hỏa Unocal.
Theo Tuoitre Online
Những vũ khí bí mật trong chiến tranh kinh tế âm thầm
Hiện tượng co cụm trong kinh tế giúp các công ty nhỏ giảm bớt chi phí sản xuất
Co cụm là hiện tượng nhiều công ty cùng nhóm ngành quay tụ trong một phạm vi rất gần nhau, và như một phương tiện để các công ty nhỏ được hưởng lợi ích của sự giảm bớt chi phí sản xuất thường chỉ dành cho các công ty lớn. Bài viết dưới đây đề cập tới hiện tượng co cụm của ngành ngân hàng.
Các trung tâm tài chính ngân hàng ở các thành phố lớn như London và New York đã phát triển mạnh nhiều thế kỷ qua. Hàng trăm ngân hàng đang quây tụ tại đây, nằm trong phạm vi rất gần thậm chí chỉ vài bước chân đi bộ. Điều này làm cho khách hàng dễ dàng lựa chọn, và được cho là để phản ứng lại lãi suất hấp dẫn của mỗi ngân hàng với nhau.
Các nhà kinh tế học giải thích hiện tượng co cụm như một phương tiện để các công ty nhỏ được hưởng lợi ích của sự giảm bớt chi phí sản xuất thường chỉ dành cho các công ty lớn. Một khu vực đất tốt bỏ hoang ở một vùng kinh tế yếu kém ở đó có khá nhiều các ưu đãi của chính phủ có thể mang lại nhiều lợi ích cho các công ty mới thành lập. Nhưng về lâu dài các công ty mới thành lập có thể phát ăn phát đạt và chuyển đến một địa điểm trong thành phố với chi phí đắt đỏ để gần một số công ty lớn có tên tuổi khác.
Bằng cách quây tụ gần nhau, các hãng có thể được hưởng lợi từ những việc như nguồn nhân công chuyên nghiệp trong khu vực đó; có thể dễ dàng tiếp cận với các nhà cung cấp phụ kiện (các nhà cung cấp của Toyota thường quây tụ xung quanh khu nhà máy của công ty mẹ, ở bất kỳ đâu có thể); và các kênh thông tin (cả các kênh chính thức như các tạp chí thương mại và các kênh không chính thức như các câu chuyện tán gẫu trong các quán rượu quanh đó).
![]() |
Ngành công nghiệp ôtô là ví dụ điển hình của hiện tượng co cụm trong kinh tế. Ảnh: abc.net.au |
Ở nước Anh thời kỳ đầu công nghiệp hoá, mô hình co cụm này là rất phổ biến. Staffordshire từng là quê hương của nhiều công ty sản xuất đồ gốm - do đó mà vùng này ngày nay vẫn được gọi là "làng gốm". Thị trấn Nottingham cũng là quê hương của nhiều nhà sản xuất ren, còn Luton lại là quê hương của nghề làm mũ...
Các cụm công nghệ cao hiện đại thường quây tụ quanh các trường đại học nổi tiếng mà có các công trình nghiên cứu liên quan. Thung lũng Silicon nằm gần trường đại học Stanford, ví dụ, và các cụm công nghệ cao tương tự cũng quây tụ quanh trường MIT gần Boston ở Mỹ và quanh trường Cambridge ở nước Anh.
Một trong các cụm nổi tiếng nhất là ngành công nghiệp sản xuất phim Hollywood. Khi hệ thống xưởng phim lớn phá sản vào thập kỷ 30, nó đã tách thành một số lượng khá lớn gồm các hãng phim nhỏ chuyên nghiệp và những người làm nghề tự do. Việc co cụm xung quanh Hollywood cho phép các công ty nhỏ được hưởng lợi như thể nó có quy mô của một hãng phim lớn, nhưng không có sự cứng nhắc của thứ bậc lương của các hãng phim cũng như lực lượng lao động được liên kết.
Trong một số trường hợp, các dịch vụ đi kèm phát triển để phục vụ cho các cụm công nghiệp vẫn giữ nguyên vị thế và phát triển mạnh thành ngành công nghiệp mới sau khi ngành công nghiệp khách hàng trước đó của họ bị tan rã. Ví dụ, gần vùng Birmingham ở nước Anh, cụm các hãng dịch vụ ngành công nghiệp ôtô đã phát triển khi thành phố này là trung tâm của ngành công nghiệp, trở thành một nhân tố quan trọng trong việc phát triển giải đua Công thức I và các ngành kinh doanh xe cộ chuyên nghiệp khác.
Hiện tượng co cụm này không còn là một hiện tượng mà thời kỳ của nó đã qua được thể hiện bởi hiện tượng ở thung lũng Silicon của California. Các hãng công nghệ thông tin và internet mới ra đời tiếp tục quây tụ ở đây bất chấp giá đất thuê ở đây rất cao và nguy cơ bị động đất. Trớ trêu thay, họ thấy rằng hầu hết các thông tin có giá trị mà họ có thể có được không đến từ nguồn điện tử mà từ các cuộc gặp mặt trực tiếp.
Michael Porter, Giáo sư Trường kinh doanh Harvard, gần đây đã thấy sự hồi phục dường như có tính chất nghịch lý của các cụm công nghiệp. Về lý thuyết, ông cho rằng, vị trí không còn là nguồn lợi thế hấp dẫn trong thời đại của cạnh tranh toàn cầu, của giao thông nhanh chóng và hệ thống viễn thông tốc độ cao. Nền kinh tế toàn cầu ngày càng gia tăng của thế giới hiện nay còn vượt xa và ra ngoài cả phạm vi địa lý. Thật vậy, rõ ràng vẫn không hẳn là như vậy.
Ông Porter đưa ra một vài ví dụ (không phải liên quan đến silicon), bao gồm cả ngành sản xuất rượu đang phát triển ở vùng bắc California và ngành trồng hoa ở Hà Lan. Ngày nay, Hà Lan không phải là lựa chọn đầu tiên mang tính tự nhiên cho bất kỳ ai bắt đầu nghề trồng hoa không phải vì thực tế rằng việc kinh doanh đã luôn sẵn ở đó. Đó là một lợi thế cạnh tranh lớn đối với những người mới vào nghề, họ có thể hưởng lợi từ những điều như các cuộc bán đấu giá hoa ở Hà Lan khá phức tạp, các hiệp hội người trồng hoa và các trung tâm nghiên cứu công nghệ của đất nước.Theo Phương Hạnh - Tuần Việt Nam
Hiện tượng co cụm trong kinh tế giúp các công ty nhỏ giảm bớt chi phí sản xuất
Thứ Ba, 3 tháng 1, 2012
Cuộc đời và sự nghiệp của tôi - Sách tự truyện của Henry Ford, người đã sáng lập Tập đoàn ôtô Ford
Henry Ford, kẻ theo chủ nghĩa hòa bình dốt nát - một bài báo đã đăng như vậy trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất. Gặp nhau tại tòa án, luật sư bên tòa án đã đặt nhiều câu hỏi kiểu như: "Benedict Amold là ai?" hay "Nước Anh cử bao nhiêu lính sang Mỹ để trấn áp quân phiến loạn năm 1776?"
Ngài Ford trả lời: "Tôi không biết nước Anh đã cử bao nhiêu lính, tôi chỉ biết là số người quay về nhà ít hơn rất nhiều so với số người ra đi". Với những câu hỏi xúc phạm, ngài lao người lên phía trước, chỉ tay vào luật sư:
"Nếu thật sự muốn trả lời mấy câu hỏi ngớ ngẩn của ông, tôi chỉ cần nhấn nút trên bàn làm việc và sẽ có hàng loạt các chuyên gia của tôi có thể trả lời tất cả các câu hỏi mà tôi đang ngồi đây phí phạm thời gian vì chúng. Hãy cho tôi biết tại sao tôi lại phải nhồi nhét vào đầu mình những điều ngớ ngẩn kia chỉ để chứng minh rằng tôi có thể trả lời bất cứ câu hỏi nào, khi trong tay tôi có đủ người tài giỏi có khả năng cung cấp cho tôi bất kỳ thông tin nào tôi cần".
![]() |
Sách tự truyện của Henry Ford |
Đọc tự truyện "Cuộc đời và sự nghiệp của tôi" của Henry Ford, bạn sẽ thấy một người chưa học hết lớp sáu có mong muốn mãnh lực và trí tưởng tượng phong phú!
Cuộc đời và sự nghiệp của tôi - Sách tự truyện của Henry Ford, người đã sáng lập Tập đoàn ôtô Ford
Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2012
Tiểu luận: Quyền chọn Option là gì?
Quyền chọn là một hợp đồng cho phép người mua được phép lựa chọn là thực hiện hay không thực hiện việc mua hay bán một số lượng một số lượng xác định các đơn vị tài sản cơ sở, trong một khoản thời gian xác định với một mức giá được xác định trước.
Các hàng hóa cơ sở của hợp đồng quyền chọn có thể là cổ phiếu, trái phiếu, ngoại tệ, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khóan hay chỉ số chứng khóan…
Một hợp đồng quyền chọn phải bao gồm các điểm cơ bản sau:
a) Loại quyền chọn.
b) Tên hàng hóa cơ sở.
c) Khối lượng giao dịch.
d) Ngày hết hạn.
e) Giá thực hiện.
![]() |
Tiểu luận: Quyền chọn Option là gì? |
Download: TẠI ĐÂY
Định dạng: 1 bài word & 1 bài powerpoint tương ứng
Tiểu luận: Quyền chọn Option là gì?
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)