Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

Nguyễn Quang A : Nguồn gốc sâu xa của vụ bê bối Vinashin



Nguồn: BBC.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A tạm dừng buổi trò chuyện bằng: "Những kinh nghiệm lịch sử từ trước đến nay. Nếu lịch sử có một chỉ dẫn gì đấy thì thấy rằng không có gì chuyển biến..." ý nhắc đến vụ ông Ngô Đình Quý, Tổng giám đốc Liên hiệp đóng tàu Việt Nam, tham ô, gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản Nhà nước, bị bắt năm 1993 và kết án 20 năm tù nhưng được tự do 5 năm sau đó.

Nguyễn Quang A : Nguồn gốc sâu xa của vụ bê bối Vinashin

Kinh tế học : Sức mạnh độc quyền là gì? Các nhà quản lý đã định giá đơn giản như thế nào?

Theo Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubinfeld, Kinh tế học vi mô, thì: “Sức mạnh độc quyền là khả năng người bán hoặc người mua có thể tác động đến giá cả của hàng hóa”.
Hai ông cũng chỉ ra các nhà quản lý đã định giá đơn giản:
P = MC / (1+1/(Ed) )  (*)

Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubinfeld
Như đã biết, để tối đa hóa lợi nhuận, một hãng phải đặt mức sản lượng mà tại đó doanh thu biên bằng với chi phí biên, nghĩa là MR=MC.
Việc gia tăng thêm 1 đơn vị sản lượng sẽ làm doanh thu tăng thêm 1P và giảm Q.ΔP/ΔQ (vì đường cầu dốc xuống).
Như vậy: MR = ΔTR/ΔQ = Δ(PQ)/ΔQ = P + Q.ΔP/ΔQ
Hay:
MR = P + P. [ (ΔP/P).(Q/ΔQ) ]
       = P + P. (1/Ed)

MR = MC P + P. (1/Ed) = MC (**)
Ta dễ dàng biến đổi (**) thành công thức (*).

Ngoài ra, có thể biến đổi (**) thành:
(P – MC)/P = -1/Ed
(P – MC)/P được xem là thước đo sức mạnh độc quyền, do nhà kinh tế Abba Lerner đưa ra vào năm 1934, hay còn gọi là Độ Lerner của sức mạnh độc quyền, kí hiệu bằng chữ L.
L của một hãng càng lớn, lợi nhuận của nó càng cao?
Một hãng có thể có sức mạnh độc quyền lớn hơn một hãng khác nhưng có thể kiếm được lợi nhuận ít hơn vì chi phí trung bình của nó cao hơn. 

Kinh tế học : Sức mạnh độc quyền là gì? Các nhà quản lý đã định giá đơn giản như thế nào?
Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012
Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

Kinh tế học : Nghịch lý về giá trị (paradox of value)

Hơn hai thế kỉ trước đây, trong tác phẩm Sự giàu có của các quốc gia, Adam Smith đã đưa ra nghịch lý về giá trị (paradox of value). Ông viết, “Không có gì hữu hình bằng nước; nhưng nó chẳng làm giảm lượng mua sắm của bất kì thứ gì, trái lại, kim cương có rất ít giá trị sử dụng; nhưng phải mất một lượng lớn nhiều hàng hóa khác mới may ra đổi được lấy nó”.
Nói cách khác, tại sao một thứ rất cần thiết cho cuộc sống như nước lại có rất ít giá trị, trong khi, kim cương vốn thường chỉ được dùng làm đồ trang sức lại đòi một mức giá quá đáng như vậy?



Nghịch lý này đã làm bận lòng Adam Smith 200 năm trước đây. Ngày nay, chúng ta biết cách giải quyết nghịch lý đó như sau: đường cung và cầu đối với nước cắt nhau ở mức giá rất thấp, trong khi cung và cầu về kim cương lại có mức giá cân bằng rất cao. Trả lời như vậy xong, tất nhiên lại đi đến một câu hỏi khác: “Nhưng tại sao cung và cầu về nước lại cắt nhau ở mức giá thấp đến thế?” Câu trả lời là kim cương là một thứ rất khan hiếm và chi phí để tìm thêm một mẫu kim cương nữa rất cao, trong khi nước tương đối phong phú hơn và ở nhiều nơi trên thế giới, nó chỉ tốn rất ít tiền.

Nhưng câu trả lời này về việc hình thành chi phí phù hợp vẫn chưa giải đáp được một sự thật không kém phần quan trọng, đó là, nước trên thế giới rõ ràng hữu ích hơn nhiều so với nguồn cung về kim cương của thế giới. Để giải quyết điều đó, khi xét đến chi phí, chúng ta phải tính đến một sự thật thứ hai: xét về tổng thể, độ thỏa dụng (còn được gọi là độ hữu dụng Utility) của nước không quyết định đến giá hoặc cầu về nó. Trái lại, giá của nước do độ thỏa dụng biên (Marginal Utility) của nó, tức là độ hữu ích của cốc nước cuối cùng, quyết định.

Vì có quá nhiều nước, cốc nước cuối cùng có giá rất thấp. Mặc dù những giọt nước đầu tiên đáng giá cả cuộc sống, những giọt nước cuối cùng lại chỉ dùng để tưới cây cỏ hay rửa xe. Vì thế chúng ta thấy rằng một hàng hóa hết sức quý báu như nước lại có giá trị gần như bằng không vì giá trị của giọt nước cuối cùng gần như bằng không.

Giống như một sinh viên đã phát triển: lý thuyết về giá trị kinh tế rất dễ hiểu nếu bạn chỉ cần nhớ rằng trong kinh tế học cái chi tiết quyết định cái tổng thể. Chính là độ thỏa dụng biên quyết định giá và lượng.

Chúng ta có thể giải quyết nghịch lý về giá trị như sau: một hàng hóa càng có nhiều thì mức độ mong muốn đối với đơn vị cuối cùng của hàng hóa đó càng ít. Vì thế thật rõ ràng là tại sao một lượng lớn nước có giá rất thấp, và tại sao những thứ cần thiết cho sự sống còn, như không khí lại là thứ cho không. Trong cả hai trường hợp, một khối lượng lớn đã đẩy độ thỏa dụng biên xuống rất thấp và do đó, làm giảm giá của những thứ sống còn này.

Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948), Kinh tế học, Nhà xuất bản tài chính, tái bản lần 1 (2007)

Tăng trưởng nóng bằng tài nguyên khoáng sản

Đối với một nền kinh tế được quản lý kém, tài nguyên khoáng sản là vật tế thần cho tăng trưởng nóng và “tăng trưởng hỏng”. Để cân bằng ngân sách, nguồn thu dễ nhất nhưng cũng kém bền vững nhất là từ tài nguyên khoáng sản.

Tăng trưởng nóng bằng tài nguyên khoáng sản

Định hướng sai thị trường tiêu điểm
Trong khi các chủ trương, đường lối, chiến lược chính sách đều nhấn mạnh ngành khai khoáng trước hết phải “phục vụ cho nền kinh tế quốc dân”, thì tài nguyên khoáng sản (TNKS) của Việt Nam thời gian qua được khai thác chủ yếu để xuất khẩu sang Trung Quốc. Việc “nhất quán” từ khâu quy hoạch, cấp phép hoạt động, khuyến khích đầu tư, đơn giản thủ tục hành chính... trong lĩnh vực khoáng sản thời gian qua đã biến Việt Nam thành nguồn cung cấp thuận lợi các loại khoáng sản có ích, không tái sinh cho thị trường Trung Quốc. Việc cung cấp này tuy nhỏ, lẻ và chỉ do một số ít doanh nghiệp được thực hiện, nhưng vô tình đã làm cho thị trường khoáng sản kim loại của Việt Nam chỉ có một người mua là Trung Quốc. 

Xác định sai cơ cấu sản phẩm
Trong khi các chủ trương, đường lối, chiến lược, chính sách đều nhấn mạnh yêu cầu “chế biến sâu” để nâng cao giá trị, thì TNKS của Việt Nam chỉ được chế biến đạt tiêu chuẩn là nguyên liệu rẻ tiền để xuất khẩu.
Ngành khai thác than, trước đây các sản phẩm than đạt tiêu chuẩn Việt Nam (chất lượng cao) chiếm 80-90%, chỉ có 10-20% là than tiêu chuẩn ngành (chất lượng thấp) và không có than tiêu chuẩn cơ sở (chất lượng xấu). Hiện nay than tiêu chuẩn Việt Nam chỉ đạt 40-50%, còn lại là than tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn cơ sở. Cơ cấu sản phẩm này đi ngược mọi quan điểm và chính sách về TNKS, nhưng phù hợp với thị trường Trung Quốc.
Quy định của Nhà nước rất chặt chẽ là không cho phép xuất khẩu quặng thô, chỉ cho phép xuất khẩu quặng đã qua chế biến. Về mặt kỹ thuật, “chế biến” là công đoạn nâng cao hàm lượng có ích trong quặng. Nhưng chỉ cần một số động tác nhặt tay, hay sàng phân loại thủ công, hàm lượng có ích đã tăng lên và quặng cũng được coi là đã qua chế biến để được xuất khẩu.

Ngoài ra, khâu chế biến trong ngành khai khoáng Việt Nam đạt trình độ kỹ thuật rất thấp. Hiện nay công nghệ chế biến titan chỉ dừng lại ở “quặng tinh” để xuất khẩu. Nếu từ tinh quặng titan chế ra được xỉ titan giá trị tăng lên 2,5 lần, từ xỉ titan chế biến thành pigment giá trị tăng 10 lần, từ pigment sản xuất ra titan kim loại giá trị tăng hơn 80 lần. Đồng Sinh Quyền cũng là một ví dụ: bằng công nghệ luyện “hiện đại” của Trung Quốc, tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản (TKV) chỉ làm ra được đồng có độ tinh khiết tối đa 99,95-99,97%, trong khi để kéo thành dây dẫn điện, đòi hỏi đồng phải có độ tinh khiết đạt 99,99%. Chênh lệch giá bán giữa hai mức độ tinh khiết này có thể lên tới hàng ngàn đô la Mỹ mỗi tấn. Alumina cũng có triển vọng tương tự. Nếu độ tinh khiết không đạt trên 98% thì hiệu quả kinh tế cũng chỉ như xuất khẩu quặng thô. 

Buông lỏng quản lý, cấp giấy phép tràn lan
Thị trường đầu ra rất “ngon ăn” đã biến lĩnh vực khai khoáng của Việt Nam, chủ yếu là đào mỏ, bung ra đến mức không thể quản lý nổi.
Trong quá trình thi hành Luật Khoáng sản 1996-2010, thông qua hai công cụ cấp phép và phân quyền, các cơ quan quản lý nhà nước về TNKS đã đóng vai trò rất quyết định trong việc chuyển đổi khối lượng lớn TNKS từ sở hữu toàn dân sang thành nguồn thu của những nhóm lợi ích.
Theo thống kê chưa đầy đủ, Việt Nam chỉ có vài chục loại khoáng sản nằm trong lòng đất, nhưng trong 12 năm (1996-2008) hai bộ Công nghiệp và Tài nguyên và Môi trường đã kịp cấp 928 giấy phép hoạt động khoáng sản, ngoài ra trong ba năm (2005-2008) còn phân cấp cho 60 tỉnh thành cấp 4.213 giấy phép.
Mặc dù vậy, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước TKV lại là trường hợp đặc biệt. Theo kết luận của Thanh tra Chính phủ, từ khi thành lập đến năm 2008, các đơn vị khai thác than của TKV hoạt động không có giấy phép và vi phạm nghiêm trọng Luật Khoáng sản.

Trong suốt 15 năm qua các cơ quan quản lý nhà nước về TNKS chỉ thực thi quyền cấp các giấy phép hoạt động khai thác những khoáng sản hiện có từ thời bao cấp, bỏ qua nhiệm vụ điều tra tìm kiếm và thăm dò các mỏ mới. 

Tổn thất TNKS còn rất lớn
Từ việc chạy theo lợi nhuận trước mắt, cùng với việc buông lỏng quản lý nhà nước, đã dẫn đến việc TNKS bị khai thác rất lãng phí. Tổn thất TNKS trong các khâu khai thác, chế biến rất cao. Tổn thất than trong khai thác bằng công nghệ hầm lò đến 40-60%; tổn thất quặng trong khai thác bằng công nghệ lộ thiên cũng rất cao: apatit 26-43%; quặng kim loại 15-30%; đá xây dựng 15-20%; vàng 60-70%... Đặc biệt, tỷ lệ tổn thất TNKS trong các mỏ do tư nhân khai thác không thể kiểm soát được vì công nghệ lạc hậu và tư tưởng “dễ làm, khó bỏ” rất phổ biến. Các mỏ đá trắng ở Nghệ An là ví dụ điển hình với tổn thất lên tới trên 70%. 

Làm gì để sử dụng bền vững TNKS?
Tiết kiệm là quốc sách: Việt Nam thuộc loại rất nghèo về TNKS nhưng sử dụng lại rất hoang phí. Trữ lượng than của thế giới đạt bình quân khoảng 120 tấn/người, còn Việt Nam chưa tới 25 tấn/người. Thế giới dùng 1 ký than để phát ra 3 kWh điện, trong khi Việt Nam chỉ phát được 2 kWh. Trong tương lai, chúng ta có thể nhập khẩu được lúa mì, nhưng không thể nhập được than, hay nước ngọt. Chính than và nước ngọt sẽ là rào cản sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù lượng mưa lớn, nhưng nước ngọt cho phát triển kinh tế đang ngày càng hiếm. Nhiều đối tác nước ngoài đề xuất các dự án đầu tư lớn như lọc dầu, hóa chất, phân bón, luyện thép ở Quảng Ninh, nơi có nhiều lợi thế về năng lượng và giao thông cảng biển, nhưng không thể triển khai chỉ vì thiếu nước ngọt. Các dự án nhiệt điện ở Quảng Ninh hiện nay cũng phải dùng nước mặn để làm mát.

Từ bỏ mô hình tăng trưởng dựa trên TNKS: So sánh hai mô hình phát triển khác nhau của tỉnh Quảng Ninh (dựa vào TNKS) và tỉnh Vĩnh Phúc (hầu như không có TNKS) cho thấy dù Quảng Ninh đứng thứ 5 về thu ngân sách tuyệt đối, nhưng nếu so sánh mức thu ngân sách trên tổng mức đầu tư của xã hội, Vĩnh Phúc đã bỏ xa Quảng Ninh.

Đối với một nền kinh tế được quản lý kém, TNKS là vật tế thần cho tăng trưởng nóng và “tăng trưởng hỏng”. Để cân bằng ngân sách, nguồn thu dễ nhất nhưng cũng kém bền vững nhất là từ TNKS. Trong kết cấu giá thành sản phẩm của ngành khai khoáng không có khoản mục “nguyên liệu chính” (thường chiếm tỷ trọng 30-70% trong chi phí của các sản phẩm khác). Trong khi đó tỷ trọng các khoản tiền lương, khấu hao thường cao. Vì vậy, dựa vào ngành khai khoáng để đạt mức tăng trưởng về GDP rất dễ dàng.

Cấm xuất khẩu khoáng sản dưới mọi hình thức: Việt Nam là nước có diện tích nhỏ, có tuổi địa chất không lớn. Vì vậy, về mặt khoa học, không có đủ không gian và thời gian để hình thành những mỏ khoáng sản lớn. Hiệu quả mang lại từ xuất khẩu khoáng sản không đáng kể. Việc cho phép xuất khẩu là nguyên nhân chính của việc khai thác khoáng sản bừa bãi, dẫn đến tổn thất tài nguyên, tàn phá môi trường. Đối với doanh nghiệp, việc cho phép xuất khẩu sẽ làm cho doanh nghiệp ỷ lại. Hiệu quả xuất khẩu ngày càng giảm. Nếu như trước đây, giá xuất khẩu than cao hơn giá thành bình quân 2-5 lần, hiện nay giá than xuất khẩu chỉ bằng 1,32 lần.

Chỉ khai thác khoáng sản khi có nhu cầu tiêu dùng trong nước: Đối với nền kinh tế, mọi khoáng sản khi chưa khai thác đều là tích sản. Vì vậy, giá trị của TNKS chưa khai thác sẽ ngày một tăng. Khoáng sản của Việt Nam chỉ mang tính hàng xén, mỗi loại có một ít, phân tán, nhỏ lẻ. Trong lĩnh vực TNKS không nên áp dụng chính sách miễn, giảm thuế. Vì càng miễn giảm thuế, TNKS càng được khai thác kém hiệu quả, tổn thất càng cao, môi trường càng xấu hơn.

Nâng cao chất lượng quy hoạch TNKS: Quy hoạch về TNKS của Việt Nam tương đối nhiều (khoảng 15 quy hoạch khác nhau). Nhưng nhìn chung, các quy hoạch được soạn thảo theo ý chí của lãnh đạo nhiều hơn là trên cơ sở khoa học và thực tế. Chất lượng quy hoạch thấp, điển hình là các quy hoạch quan trọng như bauxite, titan và gần đây là quy hoạch than (vừa được Thủ tướng phê duyệt ngày 9-1-2012).

Các quy hoạch thường có tên gọi “thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng”… nên đã “vỡ” ngay trong tên gọi và khi còn trên giấy. Theo quy hoạch mới nhất của ngành than, riêng khâu thăm dò đến năm 2015 phải thực hiện 2,23 triệu mét khoan sâu, tương đương với khối lượng thực hiện từ năm 1955 đến nay trong ngành than. Chỉ cần mắt xích thăm dò này đổ, toàn bộ các khâu khai thác, chế biến, sử dụng than sẽ vỡ theo. Quy hoạch TNKS là đầu vào của các quy hoạch khác (như điện, thép, xi măng...) nên cần được tiếp cận một cách nghiêm túc.

Theo TS. Nguyễn Thành Sơn, Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, trích lại từ Tinkinhte.com

Tăng trưởng nóng bằng tài nguyên khoáng sản
Thứ Hai, 19 tháng 3, 2012

Kinh tế học : Kỳ vọng và Định luật Say 'cung tạo ra cầu của chính nó' (supply creates its own demand)


Nhà kinh tế học người Pháp J. B. Say đã thừa nhận vào đầu thế kỷ 19 rằng cung tạo ra cầu của chính nó – một tuyên bố chính thức được biết đến với tên gọi định luật Say.


Say tự mình đã diễn tả ý tưởng theo cách như thế này :”[A] product is no sooner created, than it, from that instant, affords a market for other products to the full extent of its own value ” [Jean -  Baptiste Say, A Treatise on Political Economy, trans. C. R. Prinsep,ed. Clement C. Biddle (Philadelphia: Lippincott, Grambo&Co.,1855 {1803}): bk. I, chap. XV ,para. 8]. Mặc dù ý tưởng này đã được phát triển bởi các nhà kinh tế học cổ điển khác (bao gồm James Mill, David Ricardo và John Stuart Mill), thành ngữ thực tế  “cung tạo ra cầu của chính nó” (supply creates its own demand), bây giờ được biết đến như  Định luật Say, đã được đút kết sau đó – có lẽ cho đến năm 1936 bởi John Maynard Keynes, người đã tấn công ý tưởng này. Xem Keynes , The General Theory of Employment, Interest, and Money (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1964 [1936]), 18, 25.

Vì sản xuất tạo ra thu nhập bằng với giá trị đầy đủ của sản phẩm được bán ra, tổng thu nhập sẽ luôn luôn đủ để mua tất cả sản lượng được sản xuất. Không may là kỳ vọng tiêu cực đôi lúc xâm nhập vào vòng chu chuyển hạnh phúc của sản xuất và tiêu dùng này. Nếu các cá nhân dự kiến thời kỳ khó khăn sắp xảy ra ngay ở phía trước , họ có thể kìm lại các khoản chi tiêu của họ, bao gồm cả tiêu dùng và đầu tư, do vậy tạo ra một hố cách giữa GDP tiềm năng (cung khả thi – feasible supply) và GDP thực tế (cầu hữu hiệu – effective demand).

Kết quả là một vòng xoắn trôn ốc hướng xuống hiện rõ: vì lo lắng, người tiêu dùng quyết định tiết kiệm nhiều hơn và tiêu dùng ít đi, các hãng sa thải công nhân và giảm đầu tư mới vì họ không thể sản xuất ra những hàng hóa và dịch vụ mà họ không thể bán được; gia tăng thất nghiệp và giảm thu nhập, từ đó làm cắt giảm cầu nhiều hơn và do vậy tiếp tục làm nhấn sâu hơn vòng xoắn hướng xuống. Dù năng lực sản xuất vẫn tồn tại, sản lượng giảm vì các nguồn lực sản xuất – cả con người và máy móc thiết bị - bị rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng để đối phó với sự suy sụp của phía cầu. Keynes thích gọi hiện tượng này là “nghịch lý của sự nghèo đói trong sự dư thừa” (paradox of poverty in the midst of plenty).

Theo David A. Moss (2007), Hướng dẫn tóm tắt về Kinh tế học vĩ mô, được dịch bởi Châu Văn Thành (2010), Bài giảng Kinh tế vĩ mô II, trường ĐH Kinh tế TP HCM.

Kinh tế học : Kỳ vọng và Định luật Say “cung tạo ra cầu của chính nó” (supply creates its own demand)
Thứ Hai, 12 tháng 3, 2012

Những bộ phim doanh nhân nên xem

Luôn phải cố gắng để có được sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống, mỗi doanh nhân có thể tìm thấy chính mình và cả những lời khuyên hữu ích trong những bộ phim cổ điển dưới đây.

1. The Social Network (2010)

Tiền bạc và danh vọng nảy sinh những vấn đề về mối quan hệ cuộc sống
The Social Network
Một cảnh trong phim The Social Network (2010)
Trở thành tỷ phủ trẻ nhất thế giới, nhưng nhà sáng lập và CEO của Facebook Mark Zuckerberg cũng đã tự tạo ra nhiều kẻ thù trên con đường đến với thành công của mình.
Với những cảnh quay từ phòng ngủ ký túc xá đại học Harvard cho đến phòng xử án, bộ phim The Social Network xoay quanh nhân vật sáng lập Facebook (do Jesse Eisenberg thủ vai) với những thử thách và thành công trong quá trình xây dựng trang mạng xã hội trở thành đế chế tỷ đô.
Mặc dù Zuckerberg và những cộng sự của anh cho rằng bộ phim hoàn toàn là hư cấu, bộ phim vẫn có ý nghĩa cảnh báo sâu sắc đối với những doanh nhân trẻ rằng danh tiếng và tiền bạc có thể dễ dàng phá hỏng các mối quan hệ cá nhân của họ.

2. Wall Street (1987)

Tham lam không phải lúc nào cũng tốt
Wall Street
Michael Douglas trong phim Wall Street (1987)
Bud Fox (do Charlie Sheen đóng), một nhà môi giới trẻ tuổi và cực kỳ tham vọng, sống ở trung tâm của thế giới mà tất cả bất cứ điều gì có thể được mua và bán. Anh tìm mọi cách để kiếm thật nhiều tiền. Anh đã nhận được sự giúp đỡ từ một nhà đầu tư cổ phiếu khét tiếng tàn nhẫn và cực kỳ giàu có Gordon Gekko (Michael Douglas thủ vai) với châm ngôn “tham lam luôn tốt”.
Gekko trở thành cố vấn cho Fox, cuốn lấy chàng doanh nhân trẻ trong đôi cánh thành công của mình bằng cách khuyến khích anh dở các trò lừa bịp trong kinh doanh. Chỉ khi Fox bị bắt giam vì những phi vụ mờ ám, anh mới nhận ra rằng có nhiều thứ còn quan trọng hơn tiền.
Wall Street gửi gắm tới các doanh nhân một thông điệp đầy nhân văn rằng sự giàu có không đến trong chốc lát và tham lam không bao giờ đem lại sự thành công đích thực.

3. The Aviator (2004)

Đừng e sợ những đối thủ mạnh
The Aviator
Leonardo DiCaprio trong phim The Aviator
Bộ phim đã đạt giải Oscar nói về sự nghiệp của huyền thoại Howard Hughes (Leonardo DiCaprio đóng) từ khi anh là đạo diễn điện ảnh của Hollywood cho đến khi trở thành phi công và rồi chủ một hãng hàng không.
Bộ phim nói về câu chuyện có thật khi Hughes tiếp nhận hãng hàng không TransWorld và cạnh tranh với hãng hàng không lớn Pan American. Con đường đến thành công đầy chông gai, thử thách nhưng Hughes không bao giờ từ bỏ. Bài học từ bộ phim cho giới doanh trẻ là: Đừng bao giờ e ngại những công ty lớn.

4. In the Pursuit of Happiness (2006)

Đạo đức trong kinh doanh luôn giúp bạn tồn tại lâu dài
In the Pursuit of Happyness
Will Smith trong In the Pursuit of Happiness
Chris Gardner (Will Smith thủ vai) là một nhân viên bán hàng đầy mâu thuẫn tại San Francisco. Anh trở thành một kẻ vô gia cư và phải chăm đứa con trai nhỏ sau khi nướng toàn bộ số tiền tiết kiệm của gia đình vào một vụ đầu tư thất bại. Nhưng Gardner không lãng phí thời gian chìm trong tuyệt vọng. Anh quyết định làm công việc thực tập không lương trong 6 tháng bởi từ đó có thể anh sẽ đạt được công việc ước mơ của mình.
Mặc dầu những người thực tập khác trẻ hơn và có học vấn cao hơn, nhưng trực giác nhạy bén, thái độ tích cực và lương tâm trong công việc lại giúp anh chiếm ưu thế. Anh đã thực hiện được giấc mơ của mình và nhận được sự kính trọng của đồng nghiệp.

5. Jerry Maguire (1996)

Hãy luôn đề cao những giá trị của bạn
Jerry Maguire
Tom Cruise trong phim Jerry Maguire
Tại một công ty thể thao sẵn sàng làm bất kỳ điều gì, kể cả những việc trái với lương tâm, để có được những hợp đồng cho các vận động viên (cùng với mức lợi nhuận khổng lồ đi liền đó), Jerry Maguire (Tom Cruise đóng) đã bị sa thải bởi anh tỏ ra trung thực trong công việc. Mất việc và hầu hết khách hàng, nhưng Jerry không từ bỏ, anh quyết định lập một công ty thể thao của riêng mình. Bộ phim nhắc nhở chúng ta rằng khởi nghiệp kinh doanh không bao giờ là dễ dàng nhưng làm những gì mà bạn tin tưởng luôn là lựa chọn chính xác. Cuối phim, Jerry trở nên hạnh phúc và thành công hơn bao giờ hết.

6. Baby Boom (1987)

Doanh nhân hoàn toàn có thể đạt được sự cân bằng giữa cuộc sống và công việc
Baby Boom
Một cảnh trong phim Baby Boom
J.C. Wiatt (Diane Keaton thủ vai) là một nữ doanh nhân thành đạt ở thành phố New York và cô là một người nghiện làm việc. Nhưng khi cô phải nuôi một đứa trẻ sơ sinh của người họ hàng xa mới qua đời, cô đã không thể theo đuổi sự nghiệp mà bỏ đứa trẻ ở nhà. Cô quyết định chuyển từ thành phố về nông thôn và mở công ty bán mứt táo cho trẻ em, và công ty của cô làm ăn rất phát đạt. Bài học từ bộ phim là doanh nhân cũng có thể cân bằng sự thành công trong sự nghiệp và cuộc sống gia đình đầy ý nghĩa và hạnh phúc.

7. Pirates of Silicon Valley (1999)

Cạnh tranh luôn đáng giá trong kinh doanh
Pirates of Silicon Valley
Pirates of Silicon Valley
Bộ phim truyền hình Pirates of Silicon Valley xoanh quanh sự cạnh tranh giữa hai tập đoàn lớn Apple và Microsoft khi Steve Jobs (Noah Wyle) và Bill Gates (Anthony Michael Hall) cùng gây dựng đế chế công nghệ của mình vào những năm 1980.
Dù chỉ là bộ phim hư cấu, Pirates of Silicon Valley đã khắc họa thành công cạnh tranh gay gắt giữa hai doanh nhân và cách họ liên tục vươn lên từ cạnh tranh đó.
Và có thể thấy hiện nay Steve Jobs và Bill Gates thật đều là những nhân vật đứng đầu trong ngành của mình, bộ phim truyền tải một thông điệp: Khi bạn khởi nghiệp, sự cạnh tranh luôn là thuốc bổ cho sự phát triển.

Theo VnExpress.net

Những bộ phim doanh nhân nên xem

Hội thảo 'Toàn cảnh kinh tế vĩ mô và các kênh đầu tư – Hệ thống ngân hàng Việt Nam: thực trạng, tính thanh khoản và các chính sách liên quan'

Hội thảo “Toàn cảnh kinh tế vĩ mô và các kênh đầu tư – Hệ thống ngân hàng Việt Nam: thực trạng, tính thanh khoản và các chính sách liên quan” do Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT - Chi nhánh TP.Hồ Chí Minh tổ chức.
  • Thời gian: 13h30 - 16h30, thứ Sáu, ngày 16/03/2012
  • Địa điểm: Trung tâm hội nghị Thông tấn xã Việt Nam - Hội trường lớn Lầu 6, 116 - 118 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 6, Quận 3, TP.HCM
  • Người trình bày: Tiến sĩ Phạm Đỗ Chí - Cố vấn Kinh tế Cấp cao, nguyên chuyên viên cao cấp Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).
Khách muốn tham dự cần xác nhận thông tin với công ty qua số điện thoại 08.62555689 hoặc qua email fcs@fpts.com.vn

Nguồn: www.fpts.com.vn

Hội thảo 'Toàn cảnh kinh tế vĩ mô và các kênh đầu tư – Hệ thống ngân hàng Việt Nam: thực trạng, tính thanh khoản và các chính sách liên quan'

Hội thảo 'Toàn cảnh kinh tế vĩ mô và các kênh đầu tư – Hệ thống ngân hàng Việt Nam: thực trạng, tính thanh khoản và các chính sách liên quan' 
Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2012

Linking Verbs là gì? Cách dùng Linking Verbs?

Linking verbs là những động từ được dùng để nối chủ ngữ với tính từ, danh từ mà chúng mô tả hoặc bổ nghĩa cho chủ ngữ.

Những linking verbs thường gặp là:
appear
get
prove
sound
be
grow
remain
stay
become
keep
seem
taste
feel
look
smell
turn


Subject
Linking Verb
Predicate Adjective
The party
was
fantastic.
The music
sounded
great.
The decorations
looked
extremely beautiful.
The cake
tasted
utterly delicious.
The flowers
smelled
wonderful.
The students
felt
delighted.

Subject
Linking Verb
Predicate Noun
My next-door neighbor
is
an excellent doctor.
Mr. Tyler
became
a priest.
The government's economic policy
was
an utter failure.
The facts of the case
remain
a well-guarded secret.
This new discovery
represents
a breakthrough.

Chú ý:
Như đã nói ở trên, theo sau linking verbs là tính từ hoặc danh từ nhưng trong một số trường hợp có thể là phó từ:
The plant grew quickly. [action verb + adverb]
It grew dark. [linking verb (meaning became) + adjective]

Tham khảo từ http://www.englishcorner.vacau.com

Linking Verbs là gì? Cách dùng Linking Verbs? 
Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2012

Lối sống bàng quan của người đô thị và Kitty Genovese năm 1964


Một trong những vụ nổi tiếng nhất trong lịch sử New York là cái chết do bị đâm của một phụ nữ trẻ tên là Kitty Genovese năm 1964. Genovese bị một kẻ quá khích đuổi theo và hành hung ba lần trên phố trước khi bị hắn đâm chết. Trong suốt nửa tiếng đồng hồ diễn ra sự việc, 38 người hàng xóm của cô đứng xem từ cửa sổ nhà họ. Tuy nhiên, trong suốt thời điểm đó, không một ai trong số 38 nhân chứng gọi điện cầu cứu cảnh sát.

Vụ việc này đã gây ra vòng luẩn quẩn đổ thừa trách nhiệm lẫn nhau và sau đó, trở thành hình ảnh tượng trưng cho lối sống lạnh lùng, vị kỷ đặc trưng của lớp người thành thị. Rosemhal, người sau này là biên tập của thời báo New York Times viết trong cuốn sách kể về sự kiện này như sau:

"Không ai có thể lý giải được tại sao trong cả 38 người, không hề có một ai nhấc điện thoại gọi cảnh sát khi chứng kiến cảnh cô gái bị tấn công vì chính họ khi rơi vào trường hợp đó cũng không nói được nguyên do. Tuy nhiên có thể giả định rằng sự thờ ơ của họ là một trong số vô vàn những thay đổi của một đô thị  lớn. Nó gần như là vấn đề sinh tồn tâm lý. Nếu một ai đó bị bao vây và dồn ép bời hàng triệu người khác, để bảo vệ mình khỏi những đụng độ liên miên, cách duy nhất là cố gắng phớt lờ hết thảy mọi thứ. Thái độ dửng dưng đối với người hàng xóm và những rắc rối của người đó là một phản xạ có điều kiện trong cuộc sống ở New York hay bất kỳ thành phố lớn nào khác.”

Đây là kiểu cắt nghĩa dựa trên môi trường rất có ý nghĩa về trực giác với tất cả chúng ta. Cuộc sống tách biệt trong các thành phố lớn khiến con người ta trở nên độc ác và vô cảm. Tuy nhiên, toàn bộ câu chuyện về cô gái xấu số Genovese hóa ra lại phức tạp hơn và cũng đáng lưu tâm hơn.
Hai nhà tâm lý học của thành phố New York, Bibb Latane, ĐH Columbia và John Darley, ĐH New York, sau sự kiện trên đã thực hiện một loạt nhưng nghiên cứu nhằm cố gắng tìm ra chân tướng của hiện tượng được họ gán cho cái tên: Lối sống bàng quan. Họ sắp xếp một hoặc hai dạng trường hợp khẩn cấp vào những tình huống khác nhau để xem những người nào sẽ đến và giúp đỡ. Thật ngạc nhiên, kết quả họ tìm ra là chỉ với một yếu tố chúng ta cũng có thể dự đoán được hành vi trợ giúp. Yếu tố đó là số lượng nhân chứng có mặt tại hiện trường xảy ra sự việc.
[...] Thật trớ trêu! Nếu bị tấn công trên một con phố vắng chỉ có một nhân chứng duy nhất, có lẽ Genovese đã có thể sống.

Theo Malcolm Gladwell, The tipping  point - Điểm bùng phát, bản dịch tiếng Việt (2007), nhà xuất bản Lao Động.
 ---------------------------------------------------------------

 Trong The Tipping point - Điểm bùng phát, Malcolm Gladwell giải thích những điều nhỏ bé có thể tạo nên khác biệt bằng 3 thành phần: Quy luật thiểu số, Yếu tố kết dính và Sức mạnh hoàn cảnh.

Chương 2 nói về quy luật 80/20: 20% số người làm hết thảy 80% công việc. 20% ấy là Người kết nối, Nhà thông thái, Người bán hàng.
Người kết nối là hình ảnh của các mối liên kết và là những người dễ bắt chuyện. Cố gắng tìm trong nhiều người bạn bè, có thể bạn sẽ tìm ra được một người ở đỉnh kim tự tháp ấy, người này sẽ là nền tảng để gắn kết bạn với nhiều người khác.
Nhà thông thái đóng vai trò quan trọng trong truyền khẩu. Họ biết nhiều điều, cụ thể bằng những con số, như thầy giáo nhưng cũng rất ham học hỏi, tò mò như học sinh. một điều nữa làm họ được yêu mến và tin tưởng là họ luôn muốn giúp đỡ người khác như công việc của chính họ.
Người bán hàng, tương tự như Nhà thông thái, họ nhanh chóng thu hút và lây nhiễm cảm xúc cho bạn ngay từ lần gặp đầu tiên.

Chương 4 nói về Sức mạnh hoàn cảnh: con người bị ảnh hưởng nhiều bởi môi trường sống hơn là gia đình và trong một nhóm không quá lớn (<150) các thành viên tương tác, liên kết với nhau rất mạnh.

Đọc xong Điểm bùng phát, có thể bạn sẽ còn muốn tìm hiểu thêm vì sao một cái ngáp lại lây lan nhanh cả lớp hay hiện tượng tự tử của HS Mỹ những năm 80 lại biến thành đại dịch.

Lối sống bàng quan của người đô thị và Kitty Genovese năm 1964

Ngủ bao nhiêu mới gọi là đủ? Làm thế nào để ngủ ít hơn mà vẫn làm việc nhiều hơn - từ SachDoanhTri.blogspot.com

Bạn sẽ có câu trả lời khi đọc bài Làm cách nào để ngủ ít hơn mà vẫn làm việc nhiều hơn trên sachdoanhtri.blogspot.com

Vì sao ngủ nhiều đồng nghĩa báo hiệu cho sự mất thăng bằng trong giấc ngủ? Điều gì giải thích cho thói quen dậy rất đúng giờ mà không cần báo thức? Hay một số người ra nước ngoài lệch múi giờ lại bị mất ngủ trong vài tuần đầu?

Trước hết bạn cần hiểu một chút về giấc ngủ.
Khi ngủ, bạn trải qua 4 giai đoạn: Ngủ mơ màng (giai đoạn 1 và 2 – chiếm khoảng 50% thời gian ngủ), Ngủ sâu (giai đoạn 3 và 4 – chiếm gần 25% thời gian) và Ngủ REM (mắt chuyển động nhanh và sắp thức – chiếm 25%).


kinh te hoc la gi, kinh te thi truong, nen kinh te hon hop, muc tieu kinh te vi mo, vai tro cua nong nghiep trong nen kinh te, chi phi co hoi la gi, chi phí cơ hội là gì, chi phí cơ hội khi học đại học, cách tính lạm phát theo ppi, cach tinh gdp, cpi la gi, tang truong kinh te la gi, anh huong cua lam phat den doi song, bop la gi trong kinh te, cach tinh chi so hdi, mo hinh keynes, nguyen tac than trong, asean la gi, tai san ngan han la gi, cach hoc tieng anh hieu qua, cách luyện nghe tiếng anh hiệu quả, cách học tiếng anh hiệu quả, cách học tiếng anh cho người mới bắt đầu, cach hoi thoi gian trong tieng anh, download tu dien kinh te ky thuat Prodic mien phi, cach sap xep thoi gian, binh dinh co dac san gi
Ngủ bao nhiêu mới gọi là đủ?

Bạn dễ đi ngủ, bởi hai yếu tố sau:
·         Nhiệt độ cơ thể
·         Hóc môn Melatonin

Khi nhiệt độ cơ thể giảm xuống, cơ thể mong muốn được ngủ, ngược lại, khi nhiệt độ bắt đầu tăng chúng ta thường tỉnh táo hơn. Nhiệt độ con người bắt đầu giảm lúc 10h đêm và thấp nhất 4h sáng, sau đó tăng dần. Do đó, bạn có thể vận động mỗi khi cơn ngủ kéo đến để được tỉnh táo hơn. Một lời khuyên tốt là nên phơi nắng buổi sáng ít nhất 10ph. Nó không những giúp bạn tăng thân nhiệt mà còn giúp giảm hóc môn Melatonin.
Hóc môn Melatonin (gọi đùa là hóc môn ma cà rồng) được sản sinh tại võng mạc và một số nơi khác, khi gặp bóng tối. Hóc môn này kích thích giấc ngủ, nhưng có thể được kìm hãm nếu mắt tiếp xúc với ánh sáng mặt trời nhiều. Vì vậy, không những nên thường xuyên vận động mà bạn còn nên đi dạo ngoài trời nữa (tất nhiên tránh buổi trưa, tia cực tím mạnh, bình minh và hoàng hôn thì tia cực tím yếu nhất).

Khi hiểu về hai yếu tố trên, bạn có thể bắt đầu quan sát thân nhiệt mình trong ngày và điều chỉnh theo kế hoạch riêng của bạn. Bên cạnh đó, để tái tạo năng lượng thì một giấc ngủ ngắn, như ngủ trưa, là không kém quan trọng. Thời gian nên từ 10- 45ph (ở một số người có thể lớn hơn 45ph), vì trong khoảng thời gian này, cơ thể sẽ ở giai đoạn 2. Nếu bạn ngủ 2- 3 tiếng và thức dậy trong trạng thái thấy lờ đờ, ngáp liên tục, mệt mỏi thì hẳn bạn đã rơi vào trạng thái 3 (hoặc 4) –  ngủ sâu (tim đập chậm, cơ bắp, mạch giãn nở,huyết áp giảm).

Tôi bắt gặp sachdoanhtri.blogspot.com khi tìm về “Cách nói chuyện trước công chúng”. Quả thật ở đây có nhiều ebooks rất hữu ích. Có thể một số người sẽ vẫn bảo vệ quan điểm “bản quyền”,  vì sách được viết với lao động cơ bắp và trí óc của tác giả, vì tiền xuất bản, in ấn.... Và cũng sẽ có nhiều người ủng hộ sự chia sẻ, nó ít tốn kém và từ đó, người ta gặp nhau bởi sự tìm kiếm và tiến đến những cái chung.

Ngủ bao nhiêu mới gọi là đủ? Làm thế nào để ngủ ít hơn mà vẫn làm việc nhiều hơn - từ SachDoanhTri.blogspot.com

Kinh tế học : Siêu lạm phát ở Zimbabwe

Tình hình siêu lạm phát ở Zimbabwe hiện nay còn vượt xa Đức.

Siêu lạm phát ở Zimbabwe
Kinh tế học : Siêu lạm phát ở Zimbabwe

Vào những năm 1980 Zimbabwe là nước giàu có của châu Phi. Một đô Zimbabwe lúc bấy giờ có giá trị tương đương với 1 đôla Mỹ. Nhưng đến tháng 7/2008 thì tỷ giá chính thức mà ngân hàng công bố là 20 tỷ đôla Zimbabwe / đôla Mỹ; còn tỷ giá ở thị trường chợ đen là 90 tỷ đôla Zimbabwe/đôla Mỹ!
Ngân hàng liên tục phát hành giấy bạc mệnh giá cao, tháng 1/2008 phát hành giấy bạc mệnh giá 20 triệu đôla, đến 21/7/2008 phát hành giấy bạc mệnh giá 100 tỷ đôla.

Giá một quả trứng là 7.5 tỷ đôla Zimbabwe; 1kg bắp giá 15 tỷ đôla Zimbabwe. Thu nhập của một nhân viên bán hàng là 15 tỷ đôla Zimbabwe /tháng chỉ đủ mua 20 quả trứng!
Các doanh nghiệp chỉ hoạt động cầm chừng dưới 30% công suất, tỷ lệ thất nghiệp đến 80%!

Theo TS. Nguyễn Như Ý, ThS. Trần Thị Bích Dung. 2009. Kinh tế vĩ mô. Nhà xuất bản Thống Kê.

Kinh tế học : Siêu lạm phát ở Zimbabwe