Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

Cách tính tỷ lệ lạm phát bằng CPI như thế nào?

Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên liên tục trong một thời gian dài.
Đo lường tỷ lệ lạm phát dựa vào 3 chỉ số:
Cách tính tỷ lệ lạm phát bằng CPI như thế nào?

Cách tính tỷ lệ lạm phát bằng CPI như thế nào?

Tỷ lệ lạm phát = [ Ip/Ip-1 – 1] x 100%
Trong đó, Ip là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của kỳ đang tính và Ip-1 là CPI của kỳ trước. Như vậy, để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết chúng ta cần hiểu chỉ số giá tiêu dùng là gì và sau đó áp dụng vào công thức trên.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI là mức giá chung, hay nói chính xác hơn là số trung bình của giá nhiều loại hàng hóa và dịch vụ. Đầu tiên, cơ quan chức năng sẽ chọn một rổ hàng hóa, gồm những mặt hàng mà một hộ gia đình tiêu biểu ở thành thị tiêu dùng (trong một tháng chẳng hạn). Tiếp theo, gắn trọng số của các mặt hàng trong rổ và tính:
Cách tính tỷ lệ lạm phát bằng CPI như thế nào?
Ipj là giá mặt hàng thứ j và dj là tỷ trọng tiêu dùng của mặt hàng thứ j.
Cách tính tỷ lệ lạm phát bằng CPI như thế nào?
Từ cách tính, các bạn sẽ “nghi ngờ” ở tỷ trọng, bởi khi giá một loại hàng hóa tăng lên, người tiêu dùng có xu hướng chuyển sang hàng thay thế nên tỷ trọng này (thay vì phải giảm xuống thì lại) giữ nguyên, dẫn đến sự đánh giá “quá cao” sự tăng giá.

Phần trên, chúng ta vừa bàn đến CPI và sự tăng giá hàng hóa, dịch vụ trong tiêu dùng, còn trong sản xuất? Đó sẽ là chủ đề tiếp theo.

Cách tính tỷ lệ lạm phát bằng CPI như thế nào?
Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

'Suy thoái' - Sự khác nhau giữa Recession và Depression

Trong tiếng Anh, Recession và Depression đều có nghĩa: "Suy thoái". Đâu là sự khác nhau giữa hai từ này? Hãy cùng xem video dưới đây!





'Suy thoái' - Sự khác nhau giữa Recession và Depression
Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

Chu kỳ kinh doanh là gì?

Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948), Kinh tế học, bản dịch tiếng Việt, nhà xuất bản Tài Chính, tái bản lần 1 (2007): Chu kỳ kinh doanh là một sự dao động của tổng sản lượng quốc dân, của thu nhập và việc làm, thường kéo dài trong một giai đoạn từ 2 đến 10 năm, được đánh dấu bằng một sự mở rộng hay thu hẹp trên quy mô lớn trong hầu hết các khu vực của nền kinh tế.
Chu kỳ kinh doanh là gì?
Minh họa cho chu kỳ kinh doanh

Hai ông nói thêm rằng hình thái của các chu kỳ kinh doanh không theo quy luật. Tuy nhiên, có thể nhận biết giai đoạn suy thoái khi GDP giảm trong 2 quý liên tiếp. Lúc này:
  • Chi tiêu dùng giảm hẳn rõ rệt, tồn kho của doanh nghiệp tăng lên nhanh.
  • Các doanh nghiệp ngưng hoặc cắt sự đầu tư vào máy móc, nhà xưởng.
  • Cầu lao động giảm mạnh nên thất nghiệp gia tăng.
  • Lạm phát giảm.
  • Cầu tín dụng giảm kéo theo lãi suất giảm.

Còn giai đoạn mở rộng thì ngược lại.

Nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh doanh vẫn còn được tranh cãi giữa các nhà kinh tế học, theo hai nhóm nội sinh và ngoại sinh. Các lý thuyết nội sinh giải thích chính các yếu tố của hệ thống kinh tế có tính chu kỳ, trong khi đó, các lý thuyết ngoại sinh cho rằng chiến tranh, cách mạng, bầu cử, phát kiến khoa học hay việc tăng giá xăng dầu hoặc tìm thấy mỏ vàng, vùng đất mới... mới là nguyên nhân chính, tạo nên chu kỳ kinh doanh.

Chu kỳ kinh doanh là gì?

Làm sao để học tốt trong năm đầu giảng đường đại học?

Chia sẻ kinh nghiệm về vấn đề này, trong quyển sách (*) của mình cùng các đồng nghiệp, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến tâm sự: “phải nhận thức được sự khác biệt giữa học phổ thông và học đại học là:
  • Học phổ thông: Bố mẹ gia đình giám sát; mỗi học kỳ, mỗi năm có họp phụ huynh, học hoàn toàn theo sách giáo khoa và chủ yếu là học thuộc lòng; ở trường được thầy cô kèm cặp uốn nắn từng dấu chấm, dấu phẩy.
  • Học đại học: khối lượng kiến thức cực lớn và rất khó, trong khi thời gian lại có hạn, học trên tinh thần tự giác và tự lực của bản thân là chủ yếu; một chủ đề phải đọc tham khảo nhiều tài liệu; phương pháp dạy và học đại học khác xa ở phổ thông, như: lớp đông, thời gian học ở lớp rất ít, cách thức kiểm tra, thi cử, đánh giá cũng khác…”

Thầy đúc kết 10 quy tắc học tập, bạn đọc có thể tham khảo, như sau:

Quy tắc 1
Không có một phương pháp mầu nhiệm nào “không học mà biết!” không có bất kỳ ai có thể học thay cho mình! Học nhiều biết nhiều, học ít biết ít, không học không biết! Việc học và nghiên cứu khoa học như con thuyền ngược nước, không tiến ắt phải lùi!

Quy tắc 2
Không có tiền bạc nào mua nổi kiến thức, hay nói cách khác, kiến thức không thể mua bán được. Quả vậy, trên thế giới này có biết bao nhiêu người giàu có, nếu có tiền là mua được kiến thức, thì những người nghèo sẽ không có cơ hội học được một chữ nào.

Quy tắc 3
Không học một cách thụ động, chung chung, mơ hồ, mà phải hiểu thấu đáo vấn đề mình đang học.
Theo ý thầy, việc hiểu ngọn ngành sẽ tạo những nếp nhăn rõ hơn trong não.

Quy tắc 4
Chỉ có lao động trí óc mới nâng cao được năng suất lao động.

Quy tắc 5
Có thể biến lao động phức tạp thành lao động giản đơn thông qua quá trình tích lũy tri thức và kinh nghiệm.

Quy tắc 6
Lao động trí ốc có tính thừa kế theo hình trôn ốc đi lên.
Thầy nói rằng chính bản thân đã tự học tiếng Anh mà không tham gia bất cứ khóa học nào. Việc đọc sách chuyên môn rất cần thiết. Khó khăn nhất vẫn là ở trang đầu tiên, cố gắng tra từ điển dịch ra tiếng Việt, nhưng đến trang thứ 2 thì có chút tiến bộ (thay vì mất 1000 giây cho trang đầu, trang thứ hai chỉ cần 999 giây!). Ngày 8 tiếng. Và cứ như thế đến trang thứ 1000 thì việc đọc tiếng Anh như đọc tiếng Việt!

Quy tắc 7
Thua thiệt luôn thuộc về những sinh viên lừng khừng.
Ấy là kinh nghiệm hơn chục năm giảng dạy. Việc đặt mục tiêu cao hơn, đòi hỏi sinh viên cần đầu tư và nỗ lực nhiều hơn so với mục tiêu trung bình. Những gì tích lũy từ năm đầu có tính hỗ trợ cho những năm sau rất nhiều.

Quy tắc 8
Vai trò của tài liệu học tập và nghiên cứu.
“Đọc sách là con đường ngắn nhất để tích lũy tri thức của nhân loại”, thầy khẳng định.

Quy tắc 9
Tiếp cận thực tế đối với sinh viên.
nghĩa là phải chủ động tham gia bài tập nhóm, viết và thảo luận các vấn đề thực tế đang diễn ra trong xã hội với chuyên ngành của mình, gọi là “học đi đôi với hành”.

Quy tắc 10
Việc tranh thủ làm thêm của sinh viên.
Thầy hoàn toàn không đồng ý với quan niệm đi làm thêm để cọ sát thực tế. Như đã nói ở trên, năm đầu tiên là rất quan trọng. Thầy khuyên sinh viên nên tận dụng tín dụng sinh viên để dành toàn thời gian cho học tập. Điểm cao sẽ giúp sinh viên dễ dàng có việc làm khi ra trường và đồng thời, lương cao hơn trả nợ nhanh hơn. Bên cạnh đó, thầy khuyến khích mỗi sinh viên hãy là chuyên gia trong chuyên ngành của mình khi còn ngồi ở giảng đường, có nhất nghệ tinh thì mới nhất thân vinh!

Trên đây là tâm sự chân thành của thầy Nguyễn Văn Tiến. Còn bạn, bạn là một sinh viên năm nhất hay là sinh viên năm cuối? Làm sao để học tốt trong năm đầu giảng đường đại học? Xin cho tôi biết suy nghĩ của bạn ở phần bình luận bên dưới!

(*) Nguyễn Văn Tiến. 2010. Giáo trình Kinh tế Tiền tệ - Ngân hàng. Nhà xuất bản Thống Kê.
Làm sao để học tốt trong năm đầu giảng đường đại học?
Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Bạn thuộc típ 'chuyên gia', 'thích thể hiện', 'bám víu vinh quang' hay 'kẻ tìm kiếm' ?

Bạn thuộc típ 'chuyên gia', 'thích thể hiện', 'bám víu vinh quang' hay 'kẻ tìm kiếm'?
Trong cuộc sống, mỗi người đều có thứ để bán cho người khác. Bạn có thể là người bán hàng khi này hay khi khác. Và nếu bạn muốn thử sức trong lĩnh vực bán hàng hoặc đang tham gia như một người bán hàng, bạn NÊN đọc quyển sách này.

Ông già bán xăng Steve sẽ cùng bạn song hành từ đầu cho đến hết câu chuyện về 4 mẫu người. Thay cho lời kết, “ông thò tay vào trong túi áo bộ đồng phục và lấy ra một tấm thẻ nhỏ ép plastic mà ông luôn mang theo. Trên đó ghi ba dòng đơn giản:
  1. Biết mình là ai.
  2. Biết mình muốn gì.
  3. Tìm con đường riêng của mình để có những bước đột phá.”
Thật vậy, bạn có thể là mẫu người thích thể hiện. Đặt mục tiêu rõ ràng và thực hiện nó cho bằng được, dù có dẫm đạp lên kẻ khác. Hay cũng có thể là mẫu người chuyên gia. Với đức tính điềm đạm, kiên trì và cạnh tranh ngầm, một chuyên gia là một trong những người bán hàng giỏi nhất.
Ngoài hai mẫu người tuyệt vời trên, tác giả Chuck Mache còn nhắc đến kẻ bám víu vinh quang chỉ vì thực hiện mục tiêu một cách nửa vời và khuyên kẻ tìm kiếm hãy can đảm tìm công việc mà họ yêu thích.
Bạn đã đọc "4 phong cách bán hàng" chưa?! Xin cho tôi biết suy nghĩ của bạn ở phần bình luận bên dưới!

Bạn thuộc típ 'chuyên gia', 'thích thể hiện', 'bám víu vinh quang' hay 'kẻ tìm kiếm' ?
Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

Thành công, kiêu ngạo và thất bại trong mở rộng thương hiệu

Kẻ thù chính của marketing thành công chính là cái tôi. Trong kinh doanh, sự khách quan là yếu tố vô cùng quan trọng và thiết yếu. Khi đã thành công, con người có xu hướng ít khách quan hơn. Họ thường áp đặt những phán xét chủ quan của mình lên nhu cầu của thị trường.

Thành công thường là nguyên nhân chết người ẩn đằng sau sự xuất hiện ồ ạt những thương hiệu mới mở. Có công ty cho rằng chính cái tên của thương hiệu mới là lý do chính khiến thương hiệu đó thành công. Với suy nghĩ này, họ nhanh chóng tìm những sản phẩm khác để gắn cái tên ấy lên.
Thành công, kiêu ngạo và thất bại trong mở rộng thương hiệu
Thực tế lại trái ngược. Một cái tên không làm thương hiệu nổi tiếng. Thương hiệu nổi tiếng vì bạn đã có những hoạt động marketing đúng đắn, hay nói cách khác, vì bạn đã tuân theo các quy luật marketing căn bản. Bạn đã thâm nhập vào tâm trí của khách hàng trước. Bạn đã thu hẹp diện tập trung. sản phẩm của bạn đã kịp sở hữu một đặc tính mạnh và sớm hơn đối thủ cạnh tranh.

Thành công thổi phồng cái tôi của con người lên đến mức họ gắn cái tên nổi tiếng lên tất cả các sản phẩm khác. Hậu quả: Thành công đến sớm, thất bại kéo dài. Bạn càng đồng hóa thương hiệu hoặc tên công ty, càng có khả năng bạn rơi vào cái bẫy “mở rộng danh mục sản phẩm". “Không phải tại cái tên” – có thể bạn sẽ nghĩ như vậy khi mọi việc bắt đầu đi sai nước cờ - “Chúng ta có cái tên rất hay cơ mà”. Trèo cao lắm thì ngã đau, càng tự hào càng tự giết mình, và kiêu ngạo dẫn đến sụp đổ.

Tom Monaghan, công ty Domino’s Pizza, là một trong số rất ít giám đốc điều hành đã nhận ra được cái tôi có thể dẫn đến chúng ta sai lầm như thế nào: “Tôi từng nghĩ rằng tôi có thể làm được mọi điều. Lúc đó tôi biết mình còn rất non nớt trong kinh doanh. Tôi nhảy vào ngành hàng bánh pizza đông lạnh một thời gian. thật là thảm họa. Giá như tôi đừng múa may với mấy cái bánh pizza đông lạnh đó trong mùa cao điểm của năm, mà cố gắng bán chúng ở các quán bar và nhà hàng, thì có lẽ đến giờ Domino đã có nhiều cửa hàng hơn”.
Thế nhưng cái tôi cũng rất hữu ích trong nhiều trường hợp. Nó là động lực hữu hiệu khiến bạn bắt tay xây dựng một ngành kinh doanh. Sai lầm xảy đến khi cái tôi bị đưa vào quá trình marketing. Trong khi đó, những người làm marketing tài năng phải có khả năng tư duy như khách hàng của họ. Họ đặt mình vào vị trí khách hàng. Họ không áp đặt quan điểm chủ quan của mình vào tình hình mà họ xây dựng chiến lược marketing dựa vào ý thức và quan niệm của khách hàng. Khi thành công ngày càng nhiều, một số công ty trở nên kiêu ngạo. Họ cảm thấy họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn trên thị trường. Thành công sẽ sớm sinh ra thất bại.

Thành công, kiêu ngạo và thất bại trong mở rộng thương hiệu

[…]

Quy mô công ty càng mở rộng. Nguy cơ người điều hành cao nhất mất liên lạc với các tuyến đầu của thương trường càng cao. Có lẽ đây chính là nguyên nhân quan trọng nhất làm hạn chế sự phát triển của công ty, trong khi tất cả những yếu tố còn lại đều hỗ trợ sự phát triển quy mô của công ty. Marketing là một cuộc chiến và chiến thuật đầu tiên là chiến thuật về quân số: quân số càng đông, công ty càng lớn, càng có lợi thế. Nhưng những công ty phình to hơn sẽ đánh mất một phần lợi thế đó, nếu họ không tiếp tục tập trung sức mạnh vào cuộc chiến marketing diễn ra trong tâm trí khách hàng.

Nếu bạn là một CEO bận rộn, thì bạn phải làm thế nào để có thể tập hợp đủ thông tin khách hàng về tình hình thực tế? Làm thế nào để giải quyết tình trạng giới quản trị cấp trung chỉ báo cáo cho bạn những gì họ tin là bạn muốn nghe? Làm sao bạn thu thập được cả những thông tin tích cực lẫn tiêu cực? Bạn có thể “xuất hiện” một cách bất ngờ, không thông báo trước. Điều này đặc biệt tỏ ra hữu dụng tại những cấp phân phối hoặc bán lẻ. […]

Thời gian của các CEO thường bị phân bổ cho những cuộc họp bàn về chủ trương, hoạt động sản xuất, các cuộc họp ngoại giao, vô số dạ tiệc chiêu đãi. Theo một khảo sát, một CEO điển hình làm việc 60 giờ một tuần, trong đó dành trung bình 18 giờ cho “các hoạt động ngoại ngoại giao”,  17 giờ cho các cuộc họp hành trong công ty và 6 giờ để chuẩn bị cho các cuộc họp đó. Do đó, một CEO chì còn lại chưa đến 20 giờ để làm những việc khác, trong đó có việc quản lý hoạt động công ty và kiểm tra thực tế hiện trường. “Trăm nghe không bằng một thấy”. Với quỹ thời gian hạn hẹp này, không có gì ngạc nhiên khi các CEO giao phó công việc marketing cho cấp dưới. Nhưng đây là một sai lầm. Công tác marketing vô cùng quan trọng, quyết định phần lớn sự tồn tại hay phát triển của một công ty, của một thương hiệu; do đó, bạn không thể tùy tiện giao phó.
Bạn chỉ nên giao phó những công việc nào có thể giúp bạn tận dụng, tiết kiệm thời gian để bạn tập trung tâm sức hoàn toàn vào marketing.

Theo Al Ries, Jack Trout. 22 quy luật bất biến trong marketing. Bản dịch tiếng Việt. Nhà xuất bản Trẻ. TP. HCM. 2006.

Thành công, kiêu ngạo và thất bại trong mở rộng thương hiệu
Thứ Ba, 17 tháng 4, 2012

Chiến lược cho người thứ nhì để dẫn đầu? - Câu chuyện về Avis trong lĩnh vực dịch vụ cho thuê xe

Hãy là thương hiệu đầu tiên được khách hàng nhắc đến! Cho dù sản phẩm của công ty bạn có tốt đến dường nào đi nữa, nhưng nhớ rằng công ty tồn tại gắn liền với kinh doanh và việc mua hàng là cuộc chiến nhận thức chứ không phải cuộc chiến sản phẩm. Các nhà marketing hiện đại thường phát triển biểu tương tự thế trong các bài báo.

Vậy còn nếu công ty bạn đang xếp thứ 2 thì làm sao để có chỗ trong tâm trí khách hàng? 
Có vô vàn cách.

Nhìn lại trường hợp của Avis.
Warren Avis thành lập Avis năm 1946, công ty có tổng cộng 3 chiếc xe hơi. Lúc này Hertz là người dẫn đầu trong lĩnh vực dịch vụ cho thuê xe. Năm 1953, Avis lớn tứ nhì tại Mỹ sau Hertz. Theo Al Ries, Jack Trout (*), 13 năm liên tục với quảng cáo: “Finest in rent-a-cars” (dịch vụ cho thuê xe tốt nhất) đã ngốn đi Avis rất nhiều tiền. Và họ bắt đầu thu lợi nhuận chỉ khi thừa nhận: “Chúng tôi xếp hạng nhì nên chúng tôi nên nỗ lực nhiều hơn”.

Khẩu hiệu này đã tác động tốt đến Avis như thế nào?

Chiến lược cho người thứ nhì để dẫn đầu? - Câu chuyện về Avis trong lĩnh vực dịch vụ cho thuê xe
“Nỗ lực nhiều hơn” bằng với dịch vụ tốt hơn, khách hàng thương cảm nhưng không có nghĩa là họ sẽ chọn lựa. Đúng vậy, họ sẽ vẫn chọn công ty dẫn đầu (tương tự như trong phim ảnh, bạn sẽ cổ vũ người yếu thế nhưng khi cá cược, chắc chắn bạn sẽ chọn người mạnh hơn). Thị trường cho thuê xe tách thành 2 nhóm, nhóm thứ nhất thích Hertz và nhóm còn lại không hài lòng với Hertz. Nếu bạn không ở nhóm thứ nhất, có phải bạn sẽ chọn công ty “hạng nhì” và an tâm vì “nỗ lực nhiều hơn”?

(*) Al Ries, Jack Trout, 22 quy luật bất biến trong marketing. Bản dịch tiếng Việt. Nhà xuất bản Trẻ. 2006.
Chiến lược cho người thứ nhì để dẫn đầu? - Câu chuyện về Avis trong lĩnh vực dịch vụ cho thuê xe
Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2012

Gõ cụm từ tìm kiếm trên Google như... Excel và hiệu quả hơn!

       Thông thường, tìm kiếm thông tin nhanh, chúng ta lên trang Google.com.vn (hoặc Google.com) rồi gõ cụm từ cần tìm kiếm vào. Mặc dù Google chiếm hơn 70% thị trường tìm kiếm, nhưng để nâng cao hữu hiệu hơn nữa, bạn có thể bổ sung cụm từ tìm kiếm theo một số cách dưới đây: 

Chính xác cụm từ.
Hãy đặt cụm từ trong dấu nháy kép. Ví dụ: “chi phí cơ hội” 

Loại trừ một từ khác.
Chỉ cần thêm dấu gạch ngang trước cụm từ cần loại trừ. Ví dụ: kinh tế công-khái niệm 

Chứa những từ tương tự.
Nếu muốn hiển thị thêm những kết quả có chứa từ tương tự, hãy sử dụng dấu ~ trước từ đó. Ví dụ: đường giới hạn khả năng sản xuất ~ bài tập 

Cụm từ này HOẶC cụm từ kia.
Đơn giản đặt OR giữa hai cụm từ. Ví dụ: CIVETS or BRICs 
Gõ cụm từ tìm kiếm trên Google như... Excel và hiệu quả hơn!
Tập tin tài liệu.
Thêm filetype phía sau. Ví dụ: muốn tìm bài powepoint về thất nghiệp, bạn gõ: “thất nghiệp” filetype:pptx 

Tìm trên một trang web.
Thường dùng trong trường hợp trang web mà bạn đang tham khảo, không có hộp tìm kiếm hoặc hộp tìm kiếm hoạt động không tốt. Bạn gõ lên Google cụm từ tìm kiếm và thêm phía sau: site:tênwebsite.com.
Ví dụ: “vai trò nông nghiệp” site:nghiencuukinhtehoc.com
Tương tự như vậy, nếu bạn vừa thành lập một trang web và muốn nhanh chóng cho Google nhận diện hoặc muốn kiểm tra xem trang web mình đã được Google đánh dấu bao nhiêu trang, bạn hãy lên Google và gõ: site:têntrangwebcủabạn.com.
Bạn sẽ thấy được kết quả.

Bạn đã sử dụng Google hiệu quả chưa? Xin cho tôi biết suy nghĩ của bạn ở phần bình luận bên dưới!

Gõ cụm từ tìm kiếm trên Google như... Excel và hiệu quả hơn!
Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

Google dẫn đầu lĩnh vực 'tìm kiếm trên internet' nhờ phát triển công nghệ

Google là một công cụ tìm kiếm hàng đầu thế giới vì một lý do: công nghệ tìm kiếm của họ vô cùng “hoành tráng”. Hai người sáng lập là Larry Page và Sergey Brin đã phát triển công nghệ này và danh tiếng của họ nhanh chóng nổi như cồn cùng với thương hiệu Google.


Chiếm lấy vị trí dẫn đầu trong công nghệ
bằng cách phát triển hoặc mua lại
Google còn một sản phẩm thật kinh ngạc nữa là Google Earth. Sản phẩm này cho phép người sử dụng xem những hình ảnh chi tiết chụp từ vệ tinh cho tấ cả các vị trí trên thế giới. Thật tuyệt! Nó được các đài truyền hình Hoa Kỳ sử dụng để trình chiếu sự tàn phá sau cơn bão Katrina năm 2005. Nó cũng là nguyên nhân của nhiều tranh cãi khi một số quốc gia cho rằng công cụ này có thể giúp bọn khủng bố định vị chính xác các vị trí chiến lược của họ. Dù sao đi nữa thì sản phẩm này đã củng cố thêm cho vị trí dẫn đầu của Google trong lĩnh vực “tìm kiếm trên internet”. Có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Google đã không tự phát triển sản phẩm này, họ mua lại, chính xác hơn là mua lại công ty đã phát triển ra nó. 

Theo Jacky Tai, Wilson Chew. Sát thủ khác biệt hóa – 13 chiến lược khác biệt hóa để phát triển thương hiệu. Bản dịch tiếng Việt. Nhà xuất bản Trẻ. TP.HCM. 2009.

Google dẫn đầu lĩnh vực 'tìm kiếm trên internet' nhờ phát triển công nghệ
Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

Pepsi đã định vị thương hiệu bằng chiến lược khác biệt hóa như thế nào khi đối mặt với người dẫn đầu Coca-cola 'thứ thiệt' ?

Nói đến nước giải khát thì Coca-cola là ông vua của thế giới này. Họ đã định vị mình là “thứ thiệt” và đó là một chiến lược xây dựng thương hiệu rất hiệu quả. Coke là thương hiệu đầu tiên có mặt trên thị trường, có nghĩa là đây mới là cola nguyên thủy – thứ thiệt. Ai cũng muốn dung thứ thiệt. Nếu bạn không uống Coke thì bạn sẽ chọn gì nào?

Pepsi đã định vị thương hiệu bằng chiến lược khác biệt hóa như thế nào khi đối mặt với người dẫn đầu Coca-cola 'thứ thiệt' ?
Pepsi đã định vị thương hiệu bằng chiến lược khác biệt hóa như thế nào
khi đối mặt với người dẫn đầu Coca-cola 'thứ thiệt' ?

Nhưng Pepsi có thể minh chứng rằng sản phẩm của họ có hương vị ngon hơn. Sự thách thức của Pepsi thể hiện qua cuộc thử nghiệm hương vị kiểu “bịt mắt” (blind taste test) với sự tham gia của 800 000 người trong năm 1983. Kết quả là 60% số người tham gia thử nghiệm đã cho rằng Pepsi ngon hơn Coca-cola. Nhưng Coca-cola vẫn bán chạy hơn Pepsi. Khi xem xét chọn lựa, người ta vẫn thiên về Coke hơn, bởi vì đó là thứ thiệt. Và thứ thiệt là thứ tốt nhất, bất chấp kết quả thử nghiệm kiểu “bịt mắt” nói trên.

Khi đối mặt với một đối thủ có “thứ thiệt” này thì các công ty khác đều “bó tay” khi sử dụng chiến lược “chất lượng tốt hơn và giá rẻ hơn”. Còn sử dụng chiến lược “hiệu quả hoạt động” thì sao nhỉ? Bạn có thể làm, nếu như lĩnh vực nước giải khát này thực sự nhạy cảm với “hiệu quả”, như sản phẩm chíp trong máy tính. Nhưng thực tế thì nước giải khát không nhạy cảm với yếu tố này và khi đó, một thức uống “hiệu quả cao” cũng không thể giúp bạn khác biệt hóa.

Pepsi cần phải chiếm vị trí đối lập, nhưng điều này gây ra những thách thức lớn cho mọi phương diện. Đối lập với “thứ thiệt” là “thứ giả mạo”. Ai muốn dùng sản phẩm giả mạo?

Pepsi đã định vị thương hiệu bằng chiến lược khác biệt hóa như thế nào khi đối mặt với người dẫn đầu Coca-cola 'thứ thiệt' ?
Pepsi đã định vị thương hiệu bằng chiến lược khác biệt hóa như thế nào
khi đối mặt với người dẫn đầu Coca-cola 'thứ thiệt' ?

[…]
Hãy định vị lại đối thủ. Và chọn cho mình vị thế đối lập với họ. Có lẽ quy trình tư duy dưới đây là của Pepsi khi họ tìm đến một chiến lược khác biệt hóa từ vị thế đối lập với người dẫn đầu: 
1.      Coke là “thứ thiệt”. Chúng tôi muốn đối lập với Coke, nhưng không muốn mình là đồ giả bởi không ai muốn uống đồ giả. 
2.      Tại sao Coke là thứ thiệt? Bởi vì họ là nhãn hiệu nước giải khát cola đầu tiên có mặt trên thị trường. Đó là điều không thể chối cãi được. 
3.      Là người đầu tiên à? Tốt thôi, nhưng vẫn có một số bất lợi. Đầu tiên, đó là việc Coke đã cũ rồi, xưa lắm rồi – ra đời từ năm 1886, nghĩa là đã hơn 120 tuổi! Quá già rồi. Đừng tưởng Pepsi “còn quá trẻ” so với Coke, nhưng là người đi đầu tiên nên Coke được coi là “ông nội của nước ngọt”. 
4.      Pepsi phải thừa nhận rằng Coke là thứ thiệt. Và Pepsi sẽ đi xa hơn khi cho rằng Coke là thứ thiệt bởi vì họ là thứ quá xưa cũ. Đó là thương hiệu mà ông bà cha mẹ của bạn đã dùng. 
5.      Sau cùng, Pepsi chọn vị thế đối lập: “thứ dành cho giới trẻ”. Đây là thương hiệu của thế hệ tiếp theo. 

Điều này khiến thị trường bị phân hóa thành 2 thái cực đối lập nhau. […]
Pepsi thể hiện hình ảnh trẻ trung của họ thật tươi sáng với khẩu hiệu kèm theo “Thế hệ Pepsi”, và họ dùng những người nổi tiếng nhưng còn trẻ và sành điệu để thực hiện các chương trình truyền hình quảng cáo. […]

Hiện nay, Pepsi là thương hiệu số 2. Họ chọn vị thế đối lập và đã thành công với chiến lược khác biệt hóa này. Họ chỉ nhường lại một không gian chật chội để các đối thủ khác trong lĩnh vực cola thoi thóp thở. Coke dành cho người lớn tuổi, Pepsi dành cho giới trẻ. Vậy thì thương hiệu số 3 có thể làm gì đây?

Theo Jacky Tai, Wilson Chew. Sát thủ khác biệt hóa – 13 chiến lược khác biệt hóa để phát triển thương hiệu. Bản dịch tiếng Việt. Nhà xuất bản Trẻ. TP.HCM. 2009.

Pepsi đã định vị thương hiệu bằng chiến lược khác biệt hóa như thế nào khi đối mặt với người dẫn đầu Coca-cola 'thứ thiệt' ?
Thứ Sáu, 6 tháng 4, 2012

Hãy lên kế hoạch cho ngày hôm sau ngay từ tối hôm trước! Jack Canfield

Một trong những công cụ hữu hiệu mà những người thành đặt sử dụng để chia nhỏ mục tiêu, giành quyền kiểm soát cuộc sống và nâng cao nâng suất làm việc chính là lên kế hoạch cho ngày hôm sau ngay từ tối hôm trước.

Có hai nguyên nhân giải thích tại sao đây là chiến lược thành công hữu hiệu: 

1.      Nếu bạn lên kế hoạch cho ngày hôm sau từ tối hôm trước – lập danh sách những việc cần làm và dành vài phút hình dung xem bạn muốn ngày hôm đó diễn ra thế nào – phần trí não vô thức của bạn sẽ xem xét những nhiệm vụ này suốt cả đêm. Nó sẽ nghĩ ra những phương pháp sáng tạo để giải quyết mọi vấn đề, vượt qua mọi trở ngại và đạt được những kế quả bạn mong muốn. Và nếu theo vài lý thuyết vật lý lượng tưởng mới, phần trí não vô thức sẽ truyền đi năng lượng hấp dẫn những con người và nguồn lực bạn cần để thực hiện mục tiêu. 

2.      Thông qua việc lên kế hoạch cho ngày hôm sau từ tối hôm trước, bạn có thể khởi động ngày mới suôn sẻ. Bạn biết được chính xác mình sẽ làm gì, thực hiện việc gì trước, việc gì sau và bạn đã tập hợp được mọi nguồn lực cẩn thiết. Nếu bạn cần gọi năm cuộc gọi điện thoại, bạn nên viết lại theo trật tự thực hiện từng cuộc gọi, ghi số điện thoại bên cạnh tên người cần gọi và chuẩn bị tất cả tài liệu cần thiết. Đến giữa buổi sáng, bạn sẽ tiến xa hơn hầu hết những người phí hoài nửa giờ mỗi ngày dọn dẹp bàn làm việc, lên danh sách, tìm kiếm những giấy tờ cần thiết – hãy nói ngắn gọn, chuẩn bị sẵn sàng để làm việc.

Jack Canfield. Những nguyên tắc thành công. Bản dịch tiếng Việt. 2009. Nhà xuất bản  Tri Thức. Hà Nội.

Hãy lên kế hoạch cho ngày hôm sau ngay từ tối hôm trước! Jack Canfield