Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

Một số học thuyết tiền tệ tiêu biểu với các quan điểm có liên quan về nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ

Một số học thuyết tiền tệ tiêu biểu với các quan điểm có liên quan về nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ:

        1.      Các trường phái kinh tế học cổ điển
        §  Quan điểm về nguồn gốc của tiền tệ: có hai trường phái nổi bật mang màu sắc duy vật và duy tâm.
Trường phái thứ nhất cho rằng: tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu của quá trình trao đổi hàng hóa. Đại diện cho trường phái này là Adam Smith (1723-1790), nhà kinh tế học người Anh cho rằng: “Trao đổi là dấu hiệu quan trọng nhất nói lên bản chất của nền sản xuất, tiền phát sinh là do những khó khăn của hình thức trao đổi trực tiếp H-H”. Adam Smith đã nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ từ yếu tố khách quan của quá trình trao đổi, song ông đã bỏ qua nguồn gốc của tiền tệ ngay trong hình thái giá trị giản đơn mà chỉ phân tích nguồn gốc của tiền tệ từ hình thái giá trị chung.

Trường phái thứ hai cho rằng: tiền tệ ra đời bắt nguồn từ tâm lý của con người. Đại diện cho trường phái phái này là hai nhà kinh tế học người Đức – V. Gheclop và C. Smondet. Họ cho rằng: tiền xác định đẳng cấp xã hội là thuộc về bản tính con người, vì đàn ông là danh vọng xã hội còn ham muốn làm đẹp với nhiều loại trang sức là bản tính của phụ nữ! Với cách lập luận mang tính duy tâm, trường phái này đã đứng trên quan điểm tâm lý để nghiên cứu một phạm trù kinh tế nên hoàn toàn thiếu thuyết phục.

§  Quan điểm về bản chất và chức năng của tiền tệ: có hai trường phái là trường phái tiền tệ kim loại và trường phái tiền tệ duy danh (tiền danh nghĩa).
Trường phái tiền kim loại:
Có nguồn gốc từ chủ nghĩa trọng thương với những đại biểu như Thomas Mun (1571-1641), Antoine Montchsetien (1575-1629), Jean Baptiste Colbert (1618-1683)...  Quan điểm của trường phái này là: vàng, bạc tự nhiên đã là tiền tệ, vàng bạc và tiền tệ là một – đó là của cải duy nhất của quốc gia và tiêu chuẩn đánh giá sự giàu có của nước đó...
Với quan điểm nêu trên, trường phái kim loại đã lẫn lộn giữa kim loại quý và tiền tệ mà không thấy rằng vàng bạc cũng là hàng hóa và chỉ trở thành tiền trong những điều kiện lịch sử nhất định qua quá trình chọn lọc và cố định dần vai trò vật ngang giá chung. Mặt khác, của cải xã hội không phải chỉ có tiền mà còn bao gồm các dạng tài sản vật chất khác. Có thể thấy học thuyết này ra đời sớm nên nội dung đơn giản và cách nhìn phiến diện nên chỉ thấy được các chức năng đòi hỏi tiền phải có đủ giá trị mà không thấy được tiền dấu diệu cũng có thể đảm nhiệm một số chức năng của tiền tệ. 

 Trường phái tiền duy danh:
Ra đời trong bối cảnh nền kinh tế phát triển mạnh trong giai đoạn thế kỉ XVIII. Bên cạnh tiền đủ giá, các loại dấu hiện giá trị như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng... cũng đáp ứng nhu cầu thanh toán, trao đổi hàng hóa. Trước thực tế khách quan đó, tiền kim loại càng bộc lộ sự phiến diện, từ đấy thuyết tiền tệ duy danh ra đời. Với các đại diện nổi bật như: Adam Smith (1723-1790), D. Ricardo (1772-1823), J. Say (1767-1823)... Với quan điểm: tiền tệ là phương tiện kĩ thuật làm cho trao đổi được thực hiện, tiền chỉ là các chỉ tiêu của tỷ lệ, tiền không phải là hàng hóa mà là sản phẩm sáng tạo của Nhà nước, là đơn vị tính toán dùng trong lưu thông... Nói cách khác, trường phái này lại đứng ở góc nhìn phiến diện nghiêng về tiền dấu hiệu nên chỉ nghiên cứu tiền tệ qua chức năng phương tiện lưu thông và phủ nhận tính chất hàng hóa của tiền đủ giá cũng như không thấy được mối quan hệ giữa giá trị danh nghĩa của tiền dấu hiệu với giá trị tiền thực mà nó thay thế.
 Nằm trong số các nhà kinh tế học cổ điển, song K. Marx với cách nhìn của một nhà duy vật biện chứng đã đưa ra các quan điểm khoa học về các vấn đề tiền tệ như:
·        Về nguồn gốc của tiền tệ: ông lý giải sự phát triển qua 4 hình thái giá trị một cách logic để chức minh rằng tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của trao đổi hàng hóa.
·        Về bản chất tiền tệ: ông không phiến diện như các nhà kinh tế theo trường phái kim loại hay trường phái duy danh khi đưa ra quan điểm “Vàng, bạc về bản chất là hàng hóa nhưng trong những điều kiện khách quan nhất định vàng, bạc được tách ra khỏi thế giới hàng hóa trở thành hàng hóa đặc biệt với giá trị sử dụng đặc biệt là: vật ngang giá chung đo lường và biểu thị giá trị của các hàng hóa khác”. Như vậy trong lớp áo là tiền tệ thì vàng, bạc mang bản chất là hàng hóa. Không chỉ tập trung vào chức năng phương tiện lưu thông của tiền tệ như đa số các nhà kinh tế học trước đó, K. Marx nêu lên 5 chức năng của tiền đủ giá và trong quá trình nghiên cứu các chức năng phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, ông đã lý giải nguyên nhân ra đời của các loại tiền dấu hiệu, đồng thời đưa ra “quy luật về số lượng tiền cần thiết trong lưu thông” ghi cột mốc quan trọng cho hệ thống các quy luật về số lượng tiền trong kinh tế học hiện đại.

2.      Các trường phái kinh tế hiện đại
Sau K. Marx, các nhà kinh tế học thuộc trường phái tân cổ điển, trường phái Keynes... về cơ bản thống nhất với nhau các vấn đề như nguồn gốc của tiền, các chức năng của tiền, tuy nhiên các trường phái này nhấn mạnh hơn đến chức năng phương tiện lưu thông hơn là phương tiện cất trữ tiền.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, tư tưởng kết hợp của các nhà kinh tế theo trường phái Keynes và trường phái tân cổ điển hình thành nên trường phái hiện đại và hiện đang giữ vai trò thống trị ở Mỹ, Nhật và Tây Âu với các đại biểu như: “Kinh tế học” P. A Samuelson và W. Nordhaus,  “Kinh tế học hiện đại” của Milton Spencer, “Kinh tế học” của D. Begg, S. Fisher và R. Dornbusch. Đặc biệt trong bối cảnh các năm cuối thế kỷ XX các nhà kinh tế học hiện đại tập trung nghiên cứu sâu hơn về sự phát triển đa dạng của các loại tiền dấu hiệu, phát huy vai trò điều tiết vĩ mô của tiền chống chu kỳ khủng hoảng và thất nghiệp, bên cạnh đó, phát triển thêm về các quy luật về số lượng tiền tệ dưới nhiều góc độ khác nhau tạo điều kiện vận dụng tốt nhất phục vụ cho chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ.
Tóm lại: các học thuyết tiền tệ đã phát triển vô cùng phong phú, mỗi trường phái đều có những ưu thế riêng nhưng điều cốt lõi các nhà kinh tế học đã đúc kết những tư duy của mình đóng góp cho khoa học kinh tế nói tiêng và cho kho tàng tri thức nhân loại nói chung.

Theo PGS-TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, GS-TS. Dương Thị Bình Minh, ThS. Phạm Văn Hiếu, ThS. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai Hoài, TS. Diệp Gia Luật. 2008. Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao động Xã hội.
Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

Pháp và Đức thống nhất giải quyết nợ công của Hy Lạp

Chính phủ Đức và Pháp đã đạt được thỏa thuận về việc làm thế nào để giải quyết cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp.

Phóng viên BBC từ Berlin Steve Evans cho hay sau khi bàn thảo nhiều giờ trong tối thứ Tư, các nhà lãnh đạo của hai nước đã nở nụ cười đồng thuận.Thủ tướng Merkel và Tổng thống Sarkozy đã gặp nhau trong bảy giờ ở Berlin trước khi đến Brussels dự hội nghị thượng đỉnh.

Truyền thông Đức cho hay Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng đã tham gia vào cuộc họp với hai nhà lãnh đạo Pháp và Đức. Vào khoảng nửa đêm, cuộc họp đã kết thúc và một phát ngôn viên chính phủ Đức cho biết rằng đã đạt được thỏa thuận, mặc dù không cho biết chi tiết.

Tuy nhiên theo thông tin từ những người nắm được nội dung sự kiện này thì thỏa thuận không liên quan đến việc đánh thuế các ngân hàng để chi cho gói giải cứu tài chính thứ hai cho Hy Lạp. Điều rõ ràng là chính phủ Pháp và Đức cũng như Ngân hàng Trung ương châu Âu đã nhất trí được về một kế hoạch.
Nhiều khả năng họ khó có thể thể hiện bất kỳ sự bất đồng nào vì các thị trường hẳn sẽ phản ứng rất tiêu cực.
Điều chúng ta không biết là kế hoạch này đi xa tới đâu trong nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng, hay liệu đây đơn thuần là giải pháp trì hoãn.

Pháp và Đức thống nhất giải quyết nợ Hy Lạp
Thị trường chứng khoán toàn cầu tăng điểm theo sau tin Đức và Pháp đạt được thỏa thuận giải quyết cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp.

Theo BBC Vietnamese

Pháp và Đức thống nhất giải quyết nợ công của Hy Lạp

Ông Nguyễn Sinh Hùng sẽ làm Chủ tịch Quốc hội Việt Nam

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng là người duy nhất được giới thiệu ra ứng cử vào chức Chủ tịch Quốc hội, cho thấy các vị trí cao cấp nhất của Nhà nước Việt Nam đang dần được hoàn tất sau bầu cử Quốc hội khóa 13. 

 
Cùng ông Nguyễn Sinh Hùng, ủy ban thường vụ QH khóa này còn giới thiệu vào chức danh Phó Chủ tịch bà Tòng Thị Phóng, ông Uông Chu Lưu, ông Huỳnh Ngọc Sơn và bà Nguyễn Thị Kim Ngân.
Trong bốn người này, chỉ có bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là mới. Bà Ngân quê ở Bến Tre, được cho là nhân vật thân cận với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Trong phiên họp chiều 22/7 tại Hà Nội, Quốc hội Việt Nam đã bàn luận về dự kiến nhân sự cho các chức chủ tịch, phó chủ tịch Quốc hội và các ủy viên ban chấp hành. Dự kiến vào ngày 23/7, kết quả bầu chọn sẽ được công bố, đóng lại một giai đoạn chờ đợi, đồn đoán ở Ba Đình về các chức vụ cao nhất tại Quốc hội.
Hiện chưa rõ phong cách làm việc của ông ở cương vị Chủ tịch Quốc hội khóa 13 là gì.

Đọc diễn văn trước Quốc hội hôm khai mạc phiên họp 21/7, vẫn ở vị trí Phó Thủ tướng Thường trực của chính phủ, ông nói: "Trước tình hình và diễn biến phức tạp, chúng ta cần hành động kiên quyết, kịp thời, phù hợp với pháp luật quốc tế, đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước, huy động sức mạnh của toàn dân để bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia." Ông cũng nói quan điểm của Việt Nam là "đàm phán hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế để giải quyết tình hình phức tạp trên Biển Đông". 

Chạy chữa cho Vinashin
Ông Nguyễn Sinh Hùng có tiếng là cùng họ Nguyễn Sinh của gia đình cố Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nguyễn Sinh Cung) ở xã Nam Đàn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh năm 1946, ông từng du học ở Bulgaria và có thời gian tu nghiệp tại Liên Xô cũ. Có bằng tiến sỹ kinh tế, ông từng làm Bộ trưởng Tài chính, và ủy viên trung ương Đảng nhiều khóa. Vào Bộ Chính trị từ khóa 10, ông được cho là người có quan điểm riêng về tài chính nhưng không khống chế được việc làm ăn của các tập đoàn nhiều thua lỗ.

Tên tuổi ông bị gắn vào vụ giải quyết nợ nần cho tập đoàn đóng tàu Vinashin dù ông không phải là tác giả của dự án đó từ đầu. Hồi tháng 10 năm 2010, ông trả lời báo chí trong cương vị Phó thủ tướng kiêm Trưởng ban Chỉ đạo tái cơ cấu Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), rằng sẽ nhanh chóng "tạo ra một Vinashin mới". Ông cũng nói mạnh mẽ rằng trong quá trình tái cơ cấu nợ của Vinashin, "mục tiêu cuối cùng đặt ra là tạo ra một ngành công nghiệp đóng tàu của Việt Nam, nhưng Vinashin làm vai trò chủ lực, không phải làm tất cả". Trên thực tế, đây chính là cách "dãn nợ" và "chuyển nợ cũ thành nợ mới, dài hơn đủ sức trả" mà con số tổng cộng lên tới trên 4 tỷ USD. Nhưng sang đến giữa năm nay, bài toán đố về Vinashin này có vẻ như không thuyết phục được cả chủ nợ và dư luận.

Hồi tháng 5/2011, tờ Wall Street Journal nhận định đã có hàng chục cơ quan tài chính đầu tư vào các khoản cho Vinashin vay như Standard Chartered PLC, Credit Suisse AG, Depfa Bank PLC và quỹ đầu tư rủi ro Elliott Advisers Ltd. Theo tờ báo Mỹ (16/05), một số chủ nợ của Vinashin nay phàn nàn rằng họ đã 'bị lừa gạt', còn dịch vụ tư vấn của Moody's, Standard & Poor's và Fitch Ratings đều đã hạ điểm xếp hạng tín dụng của Việt Nam trong những tháng trước đó vì Vinashin.

Chính phủ cũng đã đổ toàn bộ số tiền 750 triệu đôla thu được từ lần phát hành trái phiếu chính phủ tại thị trường nước ngoài lần đầu tiên trong năm 2005 cho Vinashin. Hôm 07 tháng 6, báo Thanh Tra của Việt Nam có bài nói ban lãnh đạo Vinashin "đã không thực hiện đúng quyết định của Thủ tướng Chính phủ" và "cố tình sai pḥạm các quy định về sử dụng vốn".

Theo BBC Vietnamese

Ông Nguyễn Sinh Hùng sẽ làm Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

Tập thể dục giúp giảm chứng mất trí nhớ

Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy vận động cơ thể có thể giảm nguy cơ bị mất trí nhớ. Trong một số những nghiên cứu mới nhất, các khoa học gia đã đo lường mức vận động của cơ thể thay vì lệ thuộc vào trí nhớ không hoàn hảo của người được khảo sát.

  Hầu hết những nhà khoa học nghiên cứu về vận động cơ thể và bệnh mất trí nhớ chỉ dựa vào những thông tin do đối tượng nghiên cứu thuật lại. Vì thế họ yêu cầu người tham gia cuộc nghiên cứu, lấy ví dụ, cho biết đã vận động, tập thể dục như thế nào, trong tuần qua. 

Nhưng chuyện nghe tự thuật như vậy lại có những kẽ hở. Bà Laura Middleton thuộc viện Nghiên cứu Sunnybrook và Đại học Waterloo ở Canada cho biết, có một điều cần nói đến, là người ta chẳng nhớ đã làm gì. Đã vậy người ta lại có khuynh hướng thuật lại một số những hoạt động này hơn là những hoạt động kia của họ. 

Bà nói: ”Thường thì người ta rất nhớ đến những vận động như chạy bộ, đạp xe hay chơi tennis để thuật lại, nhưng lại hay quên không nhắc đến những vận động được coi là thứ cấp như đi bộ hay làm việc nhà hàng ngày, những hoạt động này có thể cũng quan trọng để đối phó với nguy cơ mất trí nhớ.  

Để tránh không lệ thuộc vào lời tường thuật theo trí nhớ lõm bõm của người tham gia nghiên cứu, bà Middleton đo lường mức vận động cơ thể bằng một kỹ thuật đã có sẵn sử dụng loại nước để theo dõi gọi là doubly-labeled water.

 

Những tham dự viên trong cuộc nghiên cứu 5 năm được cho uống một lượng nhỏ chất nước này và bằng cách đo lường những biến đổi đồng vị  trong nước tiểu của họ, các nhà khảo cứu có thể tính toán được mức tiêu hao năng lượng. 

Bà giải thích: "Điều chúng tôi tìm ra là có một liên hệ chặt chẽ giữa việc tiêu hao năng lượng và giảm thiểu nguy cơ bị mất trí nhớ. Những người tiêu hao nhiều năng lượng giảm được 90% nguy cơ sút giảm trí nhớ so với những người tiêu hao ít năng lượng trong suốt khoảng thời gian thực hiện cuộc nghiên cứu.” 

Bà Laura Middleton và các đồng nghiệp mô tả những điều họ khám phá trong tờ báo online “Archives of Internal Medicine,” được hiệp hội Y học Hoa Kỳ xuất bản.

Cũng cùng một đề tài, một cuộc nghiên cứu khác của nhóm các nhà khảo cứu của Pháp cũng nghiên cứu về sự liên hệ giữa vận động cơ thể với giảm nguy cơ mất trí nhớ trong một nhóm đông các phụ nữ có nguy cơ bệnh tim như bị phì mập hay tiểu đường. 

Trong cuộc nghiên cứu, những phụ nữ vận động thân thể tương đương với nửa giờ đi bộ nhanh mỗi ngày ít có nguy cơ mất trí nhớ hơn.

Trong một bài bình luận công bố cùng với tài liệu về cuộc nghiên cứu, bác sỹ Eric Larson thuộc Viện Nghiên Cứu của các Tổ chức Bảo Hiểm Y Tế tại Seattle, bang Washington, nói rằng những cuộc nghiên cứu cho ra thêm những bằng chứng là vận động có thể giảm bớt nguy cơ mất trí nhớ. 

Theo bác sỹ Larson, với bằng chứng thu thập được ngày càng nhiều, cuộc nghiên cứu giờ đây cần phải qui tụ vào đề tài: phương cách nào tốt nhất để khuyến khích mọi người năng vận động, nhất là trong giai đoạn sau của cuộc đời.

Theo VOA News 

Tập thể dục giúp giảm chứng mất trí nhớ 
Thứ Ba, 19 tháng 7, 2011

Lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống kinh tế xã hội?

Lạm phát (inflation) có ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy theo mức độ của nó. 

Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh những tác hại không đáng kể; còn lạm phát cao và siêu lạm phát gây ra những tác hại nghiêm trọng đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy thuộc vào lạm phát đó có dự đoán trước được hay không, nghĩa là công chúng và các thể chế có tiên tri được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là một điều bất ngờ. Nếu như lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm phát không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải pháp để thích nghi với nó. Lạm phát không dự đoán trước được sẽ dẫn đến những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.

Lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống kinh tế xã hội,kinh te hoc la gi, kinh te thi truong, nen kinh te hon hop, muc tieu kinh te vi mo, vai tro cua nong nghiep trong nen kinh te, chi phi co hoi la gi, chi phí cơ hội là gì, chi phí cơ hội khi học đại học, cách tính lạm phát theo ppi, cach tinh gdp, cpi la gi, tang truong kinh te la gi, anh huong cua lam phat den doi song, bop la gi trong kinh te, cach tinh chi so hdi, mo hinh keynes, nguyen tac than trong, asean la gi, tai san ngan han la gi, cach hoc tieng anh hieu qua, cách luyện nghe tiếng anh hiệu quả, cách học tiếng anh hiệu quả, cách học tiếng anh cho người mới bắt đầu, cach hoi thoi gian trong tieng anh, download tu dien kinh te ky thuat Prodic mien phi, cach sap xep thoi gian, binh dinh co dac san gi
Lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống kinh tế xã hội
 Tác động phân phối lại thu nhập và của cải
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những  ngươi có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói chung đều tăng lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công ăn lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại.
Để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế đưa ra cách thức giải quyết đơn giản là lãi suất cần được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ, lãi suất thực là 3%, tỷ lệ tăng giá là 9%, thì lãi suất danh nghĩa là 12%. Tuy nhiên, một sự điều chỉnh cho lãi suất phù hợp tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được trong điều lạm phát ở mức độ thấp.

Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm
Trong điều kiện nền kinh tế chưa dạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản suất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì lạm phát tăng lên. Nhà linh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm”, theo đó một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp tháp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.

Các tác động khác
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất cân đối vì khi đó các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những khu vực hàng hóa có giá cả tăng lên cao, nhưng ngành sản suất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, hạn chế đầu tư vào những ngành sản suất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm vì có nguy cơ gặp phải nhiều rủi ro. Trong lĩnh vực lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hóa thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm cho lưu thông càng thêm rối loạn. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy ra làm tăng tỷ giá hối đoái.  Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều kiện tăng cường tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng,nhiều ngân hàng bị phá sản vì mất khả năng thanh toán, lam phát phát triển nhanh, biểu giá thường xuyên thay đổi làm cho lượng thông tin được bao hàm trong giá cả bị phá hủy, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư. Lạm phát gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trị thực của những khoản công phí. Ngoài ra lạm phát cao kéo dài và không dự đoán trước được làm cho nguồn thu ngân sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái. Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những trường hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đẩy người ta nhanh hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy chính phủ có thể thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật. Trong thời kỳ lạm phát giá cả hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách vững chắc, bên cạnh đó tiền lương danh nghĩa cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế của người lao động nói chung có thể vững hoặc tăng lên, hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ cũng suy giảm.

Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội và nhà nước phải áp dụng những biện pháp thích hợp để kiềm chế, kiểm soát lạm phát.

Theo PGS-TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, Gs-TS. Dương Thị Bình Minh, Ths. Phạm Văn Hiếu, Ths. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai Hoài, TS. Diệp Gia Luật. 2008. Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Hà Nội.

Lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống kinh tế xã hội?
Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011

Kinh tế học : Nguyên nhân gây ra lạm phát theo quan điểm các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ

Khi đề cập mối quan hệ giữa tiền tệ và lạm phát, Friedman cho rằng “lạm phát luôn luôn và bất cứ ở đâu đều là hiện tượng tiền tệ” (Inflation is always and everywhere a monetary phenomenon). Khi đó lạm phát được định nghĩa là một sự tăng giá nhanh và liên tục. Hầu hết các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ, hoặc trường phái Keynes cũng đồng ý với nhận định của Friedman.

Quan điểm các nhà thuộc trường phái tiền tệ:
Trước hết, bằng việc sử dụng phân tích của các nhà kinh tế tiền tệ, chúng ta hãy xem kết quả gia tăng cung tiền tệ liên tục được minh họa ở bên dưới.
Phản ứng giá cả đối với sự gia tăng tiền tệ liên tục
 Khởi đầu nền kinh tế cân bằng ở điểm 1 (giao giữa AD1 và AS1). Nếu cung tiền gia tăng qua mỗi năm, làm cho tổng cầu dịch chuyển sang phải đến AD2. Khi đó nền kinh tế tiến đến cân bằng ở điểm 1’ với đặc điểm: sản lượng gia tăng, thất nghiệp giảm.Thế nhưng, với sự mở rộng sản xuất đến lượt nó sẽ làm gia tăng chi phí. Và đường AD2 sẽ lập tức di chuyển qua trái, cắt đường AS2 tạo ra điểm cân bằng mới ở điểm 2, với mức giá gia tăng từ P1>P2. Cứ như vậy, nếu cung tiền cứ gia tăng thì mức giá gia tăng và lạm phát xảy ra. Nghĩa là M tăng lên à P tăng lên. Trong phân tích cùa các nhà kinh tế tiền tệ, cung tiền được xem như là nguồn duy nhất làm dịch chuyển đường cầu AD, không có yếu tố khác làm di chuyển nền kinh tế từ điểm 1 đến 2 và 3 và hơn nữa. 

Theo PGS-TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, Gs-TS. Dương Thị Bình Minh, Ths. Phạm Văn Hiếu, Ths. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai Hoài, TS. Diệp Gia Luật. 2008. Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Hà Nội.

Kinh tế học : Nguyên nhân gây ra lạm phát theo quan điểm các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ 

Những lời khuyên tốt giúp bạn thức dậy và bắt đầu một ngày mới hiệu quả

Để giúp bạn có thể tận dụng tối đa thời gian cho một buổi sáng ngày hè, 9 lời khuyên sau sẽ giúp bạn ra khỏi chiếc giường và bắt đầu ngày làm việc mới một cách hiệu quả. 

1. Tập thể dục 
Tập thể dục là cách tuyệt vời để cách bắt đầu một ngày mới.

2. Không lạm dụng cafein 
Cafein và cà phê có thể giúp bạn tỉnh táo trong suốt một ngày làm việc, nhưng không nên quá lạm dụng chúng. Không nên uống quá hai ly cà phê trong một ngày.

3. Uống nước khi tỉnh dậy 
Một ly nước khi tỉnh dậy không chỉ tiếp thêm sinh lực cho cơ thể bạn, nó còn giúp kích thích hệ thần kinh và hệ tiêu hóa của bạn hoạt động tốt hơn. Vì vậy đừng quên uống một ly nước mát vào buổi sáng.

4. Lịch trình giấc ngủ 
Đi ngủ và thức giấc vào những giờ cố định mỗi ngày. Thực hiện thói quen sinh hoạt với một lịch trình giờ giấc cụ thể sẽ làm tăng khả năng thức giấc dễ dàng vào mỗi sáng. Đặc biệt, ngày mới của bạn cũng sẽ thoải mái hơn rất nhiều so với mỗi ngày bạn có một lịch sinh hoạt riêng.


 5. Thức dậy với tiếng nhạc nhẹ nhàng 
Nhiều người chọn đồng hồ báo thức là cách để dậy đúng giờ, nhưng tiếng đồng hồ báo thức nên chọn lựa như thế nào? Hãy đặt một thứ nhạc nhẹ nhàng và tăng dần về cường độ âm thanh.

6. Ngủ trong bóng tối 
Hãy tắt toàn bộ những thiết bị chiếu sáng trong phòng ngủ khi bạn đi ngủ. Đèn sáng làm nhiễu bộ não của bạn và làm cho bạn khó ngủ hơn.

7. Tắm để bắt đầu ngày mới 
Tắm là một liệu pháp thư giãn tích cực cho con người. Hãy bắt đầu ngày mới với vài phút thư giãn trong phòng tắm. Bạn sẽ cảm thấy dễ chịu hơn và không rơi vào trạng thái buồn ngủ khi mới tỉnh.

8. Ăn sáng 
Sau một đêm dài, cơ thể cần dung nạp năng lượng để phục vụ cho những hoạt động thể chất trong ngày. Một bữa sáng đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết hơn bao giờ hết. Không nên nhịn ăn hoặc ăn sáng quá muộn.

9. Học cách hít thở sâu 
Ngay sau khi bạn thức dậy, hãy thử dành cho mình vài phút để thả lỏng người, hít thở sâu. Thức dậy và tràn đầy sinh lực sẽ giúp bạn ra khỏi giường nhanh chóng và tăng khả năng làm việc trong ngày.

Nguồn: chaobuoisang.net 

Những lời khuyên tốt giúp bạn thức dậy và bắt đầu một ngày mới hiệu quả
Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2011

Kinh tế học : Lạm phát cơ bản là gì?

Lạm phát cơ bản là thước đo được sử dụng rộng rãi để đánh giá xu hướng cơ bản hay diễn biến chung của giá tiêu dùng bình quân.
Lạm phát cơ bản nắm bắt xu hướng dài hạn hoặc phổ biến của giá cả hàng hóa hay dịch vụ bằng cách loại trừ những tác động của những cơn lốc hay biến động nhất thời trong mức giá tiêu dùng bình quân, nói chung gắn với lạm phát chỉ số giá tiêu dùng CPI.

Kinh tế học : Lạm phát cơ bản là gì?
Xem thêm: Lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống kinh tế xã hội?

Kinh tế học : Lạm phát cơ bản là gì?
Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2011

Kinh tế học : Lạm phát (inflation) là gì? Các quan điểm về lạm phát?

Bản thân tiền giấy không có giá trị nội tại mà chỉ mang giá trị danh nghĩa. Do đó, khi có hiện tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại trong tay mình những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Lạm phát (inflation) là gì
Nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát (inflation), nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn. Quan điểm cổ điển cho rằng lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể người ta dự vào tỷ lệ đảm bảo của tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Chẳng hạn nếu pháp luật ấn định rằng tỷ lệ đảm bảo tối thiểu của tiền tệ 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định tức là ngân hàng đã phát hành tiền quá mức. Quan điểm này coi trọng cơ sở đảm bảo của tiền. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp định vẫn được tôn trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao. Nước Đức năm 1934 đã tránh được nạn lạm phát mặc dù tỷ lệ đảm bảo của đồng Mark xuống dưới 2%.

Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher: M.V=P.Y. Nếu tổng khối lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – dịch vụ được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu thêm vào đó tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Để khắc phục tình trạng này cần dùng biện pháp thích hợp để thiết lập lại cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
Quan điểm tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về lạm phát, nhưng không cho biết nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là kết quả của việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao. Thật ra trong nhiều trường hợp không hẳn là như vậy, nhà nước có thể tăng cung ứng tiền tệ mà không làm cho giá cả tăng, không gây ra lạm phát, nếu như khối lượng tăng đó phù hợp với khối tiền cần thiết cho lưu thông, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều cùng một ý nghĩa. Thật ra giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát mà thôi.

Vậy lạm phát là gì? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các lại hàng hóa tăng lên đồng loạt.

Theo PGS-TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, Gs-TS. Dương Thị Bình Minh, Ths. Phạm Văn Hiếu, Ths. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai Hoài, TS. Diệp Gia Luật. 2008. Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Hà Nội.

Xem thêm: Lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đến đời sống kinh tế xã hội?

Kinh tế học : Lạm phát (inflation) là gì? Các quan điểm về lạm phát?
Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2011

Christine Lagarde: không thể tưởng tượng Hoa Kỳ sẽ vỡ nợ

Khi Nhà Trắng vẫn tiếp tục đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc hội về một thỏa thuận ngân sách vào cuối tuần này, người đứng đầu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund) Christine Lagarde nói rằng cô "không thể tưởng tượng lần thứ hai" rằng Hoa Kỳ sẽ mặc định về nghĩa vụ nợ của mình, đó sẽ là "một cú sốc thực sự" cho nền kinh tế toàn cầu nếu không thoả thuận được.

Christine Lagarde 'Can't Imagine' United States Would Default on Debt

"Thách thức đó không chỉ là của Hoa Kỳ, mà còn là của phần còn lại của thế giới."
IMF đã được tạo ra sau khi chiến tranh thế giới thứ II của Mỹ và các đồng minh châu Âu của mình để giám sát các nền kinh tế toàn cầu và là một người cho vay cuối cùng, để các nước gặp khó khăn về tài chính, trong khi cũng thúc đẩy việc làm toàn cầu và tăng trưởng.

Lagarde, người trước đây từng là Bộ trưởng Tài chính Pháp, cho biết có thể có "những hậu quả thực sự khó chịu", như tăng lãi suất, thị trường chứng khoán ảm đạm, thất nghiệp gia tăng, và giảm đầu tư nếu không đạt được một thỏa thuận tháng tám này.

Theo ABCNews
Christine Lagarde: không thể tưởng tượng Hoa Kỳ sẽ vỡ nợ